Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009
Bạn lại thư về với hình ảnh......
Hương thân,
Mấy hôm đi phát tận nơi nay mới về và mail cho Hương,mình thấy thật
hạnh phúc khi cùng Hương đem lại chút ấm áp cho đồng bào ở đây,Hương
mà thấy được những người nhận quà mừng đến phát khóc chắc rất xúc
động,mình và Hương làm một việc quá nhỏ nhưng lại lớn với những con
người này,mình đã khg dám hứa với họ gì hết nhưng hy vọng Hương sẽ làm
hết sức mình để có dịp quay lại và giúp những người khác nữa,rất nhiều
người cần và mình hiểu Hương hay mình chỉ là những chiếc lá rách
thôi,có tấm lòng thôi là chưa đủ phải khg Hương?Chào và chúc Hương đủ
sức khoẻ để còn khắc khoải với những số phận nơi đây.Thân mến!
Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009
Chuyến tiếp....
Ngừi lịch sự có dzăng hóa!
chán thiệt tình,
thiệt chán tình,
tình thiệt chán
Tình chán thiệt...
Sao ở đời lắm đồ điên đồ khùng cứ lên mặt dạy đời ngừi khác dzị chài? Mình đã hơn ai, hơn cái giề mà để làm giề mà dzô nhà người ta dạy nọ dạy kia.
Thúi quá đi mất...
Cái điệu ni tui biểu thèng gể tui nó đi quét chuồng cho nó sạch
Mua thêm lá dứa , lá xả, đốt vỏ bưởi xông vi trùng...
Ngừi lịch sự ,hem bít ai vào ai mà dám mở lời dạy dỗ, thiệt tình sao ông Trời hay nặn quái thai ghia à! Hổng bít nó có học bài Lịch sự vỡ lòng hem không?
Tí tởn ta đây nghe nó thúi như mắm bò hóc, vỗ ngực ta đây ở xứ Tây, mà nào có Tây được...mũi tẹt da vàng đầu đen ....
Thứ Năm, 29 tháng 10, 2009
Vĩnh phú chớm đông -Entry for October 20, 2007
Vĩnh phú , mùa thu- chớm đông / 1972
Có lẽ đề tài này không hấp dẫn các bạn, nhưng không biết tại sao mình lại thèm được viết lại ký ức của một con nhóc, mình sợ để vài năm nữa, nó sẽ trôi tuột ra khỏi vùng ký ức và các em nhỏ sinh sau chiến tranh sẽ không biết mùi vị của chiến tranh đối với mấy đứa bé như mình ngày xưa là gì. Mình viết như một con điên, một con thiêu thân….
Trời sang thu se sắt, hơi lạnh bắt đầu về ôm ấp không gian yên tĩnh của vùng quê, lâu lâu không khí ấy bị đâm toạc ra bởi tiếng máy bay phản lực, và tiếng bom nổ xa xa. Mình cũng bắt đầu đi học lại. Ngôi trường mà mình đi học tạm trong thời sơ tán ấy là một dãy nhà tranh vách nứa, hở trên hở dưới , hai dãy bàn học khập khiễng, cập kênh, có bàn thì mất ghế, có ghế thì gãy bàn. Nền nhà được đắp đất đỏ nện chặt lại, trời mà mưa đi lạng quoạng trơn trợt té nhào. Lũ trẻ vùng quê thường hay đi chân đất đi học, nền nhà lúc nào cũng ươn ướt vì bọn nhỏ đi tắt lội qua một con mương để chui vào lớp cho gần. Cái phòng mình học cũng có cửa hẳn hoi, nhưng mà chỗ nào trên vách cũng chui vào được thay vì đi vào cửa.
Đến trường những ngày đầu tất cả học trò được huy động ra đào giao thông hào trong sân trường, bên cạnh lớp học. Cô giáo khen ngợi những đứa học trò nào đào nhiều, vác nặng là “cháu ngoan Bác Hồ” mình mặc dù là học trò thành thị nhưng vẫn cố gắng làm theo mấy đứa trẻ nhà quê để được cô khen là cháu ngoan bác Hồ, đào đất vác đất, cuốc đất mình cuốc bật cả móng chân cái, đau quá xuýt nữa té xỉu, cô ra mắng cho “cái đồ thành phố!” chỉ ăn hại. Thế là mình bị đẩy ra tuyến sau với thằng Quang nấu nước vối cho các bạn. Mà phải thừa nhận đám trẻ nông thôn lớn hơn đám trẻ thành phố cả cái đầu, chúng khoẻ mạnh dẻo dai và xốc vác. Bọn nó nhìn tụi mình như cái lũ từ lỗ nẻ chui lên. Và trên đường về nhà còn bị bọn nó ném đá, giật cặp sách ném xuống ruộng.
Hơn nửa tháng trôi qua, bắt đầu vào học văn hoá, mình trở thành con bé học giỏi nhất lớp nhưng không bao giờ được cô khen “Cháu ngoan bác Hồ” cả. Chỉ là luôn bị kêu lên để làm bài mẫu. Thật ấm ức khi mình đã cố gắng thành trò giỏi, vậy mà vẫn là đồ ăn hại đái nát – theo lời cô.
Hôm ấy, đi học về qua cái đập cống xiết nước, mình với thằng Quang cắp cặp rảo bước về nhà để trông em. Thằng Đức học cùng lớp chạy lên chặn đường bảo: “ Sao mày nhỏ tí mà dám học cùng lớp với ông?”, nó vừa hỏi vừa đưa tay tát mình, ngay lập tức, mình quăng cặp bảo thằng Quang ôm rồi nhảy xổ vào đấm nó, đánh nhau một lúc, mình đè nó xuống ngay bờ lạch, nó dãy mãi không ra, mình dúi đầu nó xuống nước, bảo nó: “ Mày tưởng mày cậy lớn đánh ông à, ông đánh cho mày chết” mỗi chữ mình mỗi dộng cho nó quả đấm. Nó sợ quá xin tha, mình thôi đấm, bảo: “ Mày nhớ nhé lần sau mày bắt nạt tao là tao cho mảy chảy máu mũi nhiều hơn thế này!” Mình lồm cồm đứng lên, nó vùng bỏ chạy thục mạng. Mình đi về nhà hân hoan huýt sáo, dù mắt bị đấm tím bầm, và cái áo bị rách toạc một đường dài, chắc là rách khi vật nhau với nó lăn cù cù trên vệ ruộng. Thằng Quang kính cẩn ôm cái cặp cho mình về tới nhà. Thằng Đức ấy cao hơn mình cả hơn cái đầu.
Chiều hôm ấy, mẹ thằng Đức dắt nó sang nhà mình mách với mẹ, bà ấy lu loa lên là mình gây sự đánh con bà ấy thâm tím hết cả mặt. Chắc vì đang ở nhờ, nên mẹ mình ra xin lỗi bà ấy và kéo mình ra cho mình mấy cái tát đau điếng. Mình lườm lườm thằng Đức bảo nó “ Ngày mai đi học ông cho mày biết tay” thế là nó dằng tay mẹ nó ra và ù té chạy.
Mình bắt đầu được cả đám trẻ nông thôn và thành thị nể phục sau vụ đánh thắng thằng Đức. Chúng nó cho mình đi chăn trâu cùng, cưỡi trâu chạy từ trên đỉnh đồi lao xuống dưới chân đồi. Đi học là chạy qua rủ mình đi cùng ríu rít chuyện trò. Chúng mình ra đồng đi gặt, đi mót lúa nếp, tụi nó dạy mình bẫy chuột đồng rồi gom rơm lại đốt nướng chuột để ăn. Cái mùi vị của chuột nướng nó ngọt ngào, đậm đà làm sao ấy, mỗi lần bắt được cả 4,5 con nướng lên không đủ nhét kẽ răng cái đám lau nhau tớ. Hôm nào đói quá thì đi vợt châu chấu, bắt ong non, bọn mình rang lên ăn như ăn lạc rang, bùi bùi béo ngậy. Tớ hay đút túi quần vài con châu chấu rang về đút cho con Phương ăn chơi, nó cũng khoái lắm.
Mình trở thành trẻ nông thôn từ dạo ấy- đen trui trũi và chẳng ốm đau lặt vặt gì nữa, mấy cái trò hen xuyễn cũng biến mất. Và suốt ngày đi chân đất, gánh nước, gánh rơm cho bà con láng giềng khi hết vụ.
Mấy mẹ con mua được hai lạng tép họ đánh, mẹ rang lên với muối phủ trắng con tép là ba mẹ con ăn được cả tuần. Một bữa cơm mình được ăn hai con với mấy bát cơm độn. Mình lớn phổng lên. Và đông về .
Chiến tranh trở nên ác liêt, miền quê không còn yên tĩnh, cả ngày nghe máy bay gầm rú, đạn bắn ì đùng, lát lát lại nghe bà con kháo nhau Việt trì trúng bom chết nhiều lắm, bố con ông kia đi mò cua bị rốc két bắn trúng mất xác..mình nghe rất nhiều và rất sợ. Tất cả học trò phải đi học ban đêm, ban ngày nghỉ để tránh bom đạn, thời gian chui xuống hầm nhiều hơn là ở trên mặt đất.
Mùa đông trở gió, lạnh buốt, khi đi học, cầm theo một cái đèn dầu con tí đựng trong ống bơ sữa bò, khoét một lỗ nhỏ xíu xiu đủ để cho một luồng sáng bằng cây đũa chui ra ngoài, hễ nghe tiếng máy bay là thổi tắt phụt để mọi thứ chìm vào bóng tối đen đặc. Mình vượt qua quãng đường vài cây số trong đêm để đến trường, đường đi học phải ngang qua mấy dãy mồ mả, vừa đi vừa run vì rét vừa run vì sợ ma, có những chỗ nghe tre kêu kẽo kẹt như nghiến răng là mình cắm đầu chạy thục mạng, có khi rơi mất cả lọ mực mà không biết, đi đến trường rồi mới tìm không được lọ mực –lại phải dùng bút chì để chép bài và ăn vài cái khẻ tay bằng thước của cô giáo.Hồi ấy trời rất rét nhưng không bao giờ bọn mình được phép đốt lửa để sưởi ấm cho dù môi tím tái, hai tay tê cứng – vì họ bảo đốt lửa là báo hiệu cho máy bay địch bỏ bom. Trong nhà cũng không được có gương soi mặt vì sợ là gián điệp soi gương lên trời báo hiệu chỗ bỏ bom, bởi thế mình chưa hề được thấy cái mặt mình ra sao suốt cái thời đi sơ tán. Chỉ nghe mấy cô bảo mình là búp bê má hồng.
Nhớ một ngày vào khoảng 10 giờ sáng, mình đang bế bé Phương chơi ngay cửa, cô Châu đang đút bột cho bé Thảo, đột ngột tiếng lao như xé của một cái máy bay phản lực sượt qua mái nhà, mình ôm bé Phương, lao ra ôm bé Thảo chui vào gậm phản, tiếng nổ khủng khiếp làm cho căn nhà muốn sập, rung rinh, lắc lư - mấy phút sau mình lóp ngóp ôm hai đứa bé- mặt mày tái nhợt khóc ri rỉ vì hoảng sợ -chui ra khỏi gầm phản. Mình chả nhìn thấy cô Châu đâu cả, mình hét lên sợ hãi gọi cô ấy mãi, lúc lâu sau mới thấy cô ấy lò dò trèo ra khỏi miệng hầm, thì ra lúc máy bay bay sượt qua, cô ấy sợ quá nhảy xuống hầm mà rơi mất bé Thảo. Trưa mẹ về mẹ kể là có chiếc phản lực rơi ở gần chỗ mình. Mẹ sợ quá đạp xe mải miết chạy về xem tụi mình có sao không. Mấy mẹ con ôm nhau khóc ròng- không ai chết cả.
(Còn tiếp mùa đông và đói)
Thứ Tư, 28 tháng 10, 2009
Hàng đã được giao đến tay từng người cần nó!
Anh đã đi phát quà cứu trợ bão lụt cho trại Phong Daktia hôm nay gồm có thuốc tây và 3 bao mền em đã gởi cho. Thật là quý giá cho những bệnh nhân phong cùi và người già yếu. Uớc mong có được mền mùng, đồ ấm cho mùa đông gió lạnh sắp đến đây cho đong bào dân tộc vùng sâu, vùng xa !
Thay mặt cho nạn nhân bão lụt Kontum và cách riêng cho bệnh nhân Phong làng Daktia, xin cám ơn em Trâm và quý ân nhân đã giúp đỡ nguời nghèo dân tộc qua cơn bão lũ này.
Anh Nho KT
Hình ảnh kèm
........................................................................................................................................
Hương ơi mình gửi mấy tấm hình chụp vội để Hương thấy những việc làm nhỏ của Hương bỗng lớn vô cung với nhưng con người này.Hình như đây là lần đầu họ nhận cái mà họ kg phải trả gì cả...
Hoan
(Thể theo yêu cầu của các bạn mình, mình cắt hết tên, địa chỉ email của họ, chỉ copy nội dung, xin các bạn thông cảm vì sự an toàn của họ.)
Các địa chỉ khác vẫn chưa lấy được hình về vì vùng sâu vùng xa không có internet chưa cập nhật về.
Trời ơi mạng rùa! Post hoài các nơi mà chưa xong, tạm ba cái ni đi, khi nào xong thì dán tiếp.
Tình yêu của tất cả chúng ta đã đến tận tay người cần mà không bị bớt xén, tui mừng quá! Hình như nó lên huyết áp!! Nóng mặt tim đập uỳnh uỳnh!
Ảnh chụp hàng cứu trợ Kontum đã đến tay người dùng...chưa cập nhật hết..
Còn gì????
Tôi chìm trong mộng mị
Nặng nề và u uất
Lòng tin vụn vỡ tan
Tôi đã cố tĩnh tâm –
Và an ủi lòng mình
Hy vọng dù ít đi
Nhưng vẫn là hy vọng
Bao đêm thức trắng bên màn hình
Trăm ngàn số nhảy múa trên ô cửa
Những đường nét toà nhà nhảy nhót
Ý tưởng tràn trề
Hy vọng biết bao nhiêu
Và giờ đây
Tôi lại đợi chờ
Khách đến lại khách đi
Hình vẽ buồn hững hờ trên giấy vẽ
Bản tính chỏng chơ ngậm ngùi im trong hốc
Và trong sâu thẳm tim tôi
Nước mắt đổ thành dòng
Bao mơ ước tôi dồn tâm trí
Trên nét bút uốn lượn vẽ vời
Và bây giờ tôi lại chờ đợi
Một cái gật đầu để bản vẽ reo vui.
Hãy nhẫn nhịn và đợi chờ
Hy vọng sẽ biến giấc mơ thành hiện thực
Trời phụ lòng người - niềm tin vỡ tan!
Xong- hết mơ hết thơ hết mộng cũng hết cả tiền!
Entry for October 20, 2007-Vĩnh phú cuối hè
Vĩnh Phú , tháng 8/1972
Những ngày hè vẫn còn , cơn nóng nực vẫn còn, mẹ phải quạt bằng cái quạt nan phành phạch hầu hết đêm cho chị em tớ ngủ. Lúc nào nóng quá, tớ phóng ra giếng dội mấy gàu nước cho mát rồi thấm khăn mặt cho ướt đem về nhà lau người cho mát.
Sáng sớm, tớ mò ra đằng sau nhà, leo lên đồi hái sim, quả sim chín nũm tím lịm, cho vào miệng cắn một phát ngọt lừ trong mồm, quả mua thì chát hơn nhưng cũng ăn được, mấy bụi sim, mua nằm lùm xùm bên con đường mòn dẫn lên đồi, hoa mua thật đẹp tím lả lơi, nằm chơi vơi trên tùm lá xanh mướt. Đang tung tăng chơi thì có con rắn to tướng dài nhằng bò qua trước mặt tớ, tớ gào lên “Trời ơi rắn to” và co giò co cẳng chạy phóng xuống đồi về nhà. Tim đập thình thịch, tớ hào hển kể chuyện cho chú Ninh nghe về con rắn , tớ dang tay ra diễn tả độ dài của nó, và khum vòng hai bàn tay để tả độ to, chú Ninh cười ầm ĩ bảo là con rắn vuông, nói mình nói láo chơi, tức quá mình kêu chú ấy lên đồi để xem, chú ấy chỉ diễu mình nhát gan, không thèm tin, tức quá mình chạy sang nhà bác Khẩn nói cho bác ấy nghe, bác tin liền và đi theo mình ra chỗ con rắn bò qua, cái vệt cỏ rạp xuống chỉ cho bác ấy đường con rắn đi, bác ấy cầm đòn gánh đi vào xóc trong bụi và đập được đúng con rắn mình thấy, bác ấy xách xuống chìa cho chú Ninh coi, thế là chú Ninh hết còn cười diễu mình nữa. Và mình thấy rắn là sợ chết khiếp từ đó.
Ngọn đồi chỉ toàn là sim , mua và cây bổi (một loại dương sỉ), đặc biệt cây bổi này vừa cắt xuống còn tươi mà đốt vẫn cháy đùng đùng như đuốc, mẹ con mình phát hiện được ra thế là cứ một tuần lại lên đồi cắt về đun, hai mẹ con gánh bao nhiêu là gánh về chất tới nóc bếp để đun dần. Mình gánh cũng giỏi lắm, gánh bổi che hết cả cái thân mình, thế mà vẫn dẻo đi xuống đồi nhanh như chớp. Mình chẳng cần phải đi tranh nhặt củi với thằng Quang em cô Châu nữa. Thế mà sau khi nó thấy đi nhặt củi khó hơn, nó cũng lên đồi chia ranh ra để cắt bổi tranh với mình. Mình ghét nó lắm, èo ẹo như con gái, cãi nhau với mình không lại là gào lên mách cô Châu, thế là mình lại bị mẹ tát cho mấy cái. Mình cũng tranh thủ khi cô Châu đi vắng, chú Ninh đi làm là mình kiếm cớ quại cho nó mấy đấm. Mà lúc bị đấm rồi nó cóc dám mách lại.
Gần hết hè, nhà bác Khẩn có đám giỗ, bác ấy mời mẹ con mình sang ăn, cỗ nhà quê đông người đến dự. Ngồi trong ngồi ngoài, chia mâm nam, mâm nữ, mâm khách , mâm nhà. Không được giết lợn, bác ấy thịt hai con chó và mấy con gà. Gà thì luộc chặt miếng, lòng nấu với ít măng bẻ ở bờ rào. Chó thì luộc và sáo măng. Mình ngồi với mẹ, thấy đĩa thịt chó thèm nhỏ dãi, gắp lia lịa đến nỗi mẹ phát ngượng lấy cái đũa gõ vào đầu mình bảo ăn phải trông người khác nữa chứ! Mính ăn cho ba bát cơm đầy ú ụ vì đám giỗ họ không nấu độn. Bác Khẩn quý mình còn để dành cho một cái đùi gà vàng ươm, mình cắn một miếng tí ti cái da và đem ra dúi cho con Phương, con bé ngồi ăn ngon lành. Mình cười khoái chí vì con Phương vốn dĩ lười ăn như hủi thế mà hôm ấy nó ăn hết cái đùi gà. Cảm giác vị ngon, vị ngọt của thịt chó ngày ấy vẫn còn đọng lại trong ký ức mình cho đến hôm nay. Đấy là lần đầu tiên mình ăn thịt chó trong đời.
Nhưng về già nuôi chó nhiều, mình không hề đụng tới nữa, yêu chó như yêu trẻ con-không thể nào ăn được.
(Còn tiếp….)
Thứ Ba, 27 tháng 10, 2009
Lại dở người!
Những dòng suy nghĩ rối bời trong bộ não nhỏ nhoi
Bao hoài bão ước mơ chỉ còn lại như những đống cứt chó
Trí não ù lỳ, sự hèn nhát choán chỗ
Câm như con hến ngậm cục bùn
Cục bùn tanh tưởi, nhả ra không được, nuốt vào không xong
Chán tới mức làm tình không còn hứng
Bưng bát cơm nhai như nuốt muối vào lòng
Ý nghĩ lộn xộn , hành động không chủ đích
Như một kẻ vô gia cư nằm dưới chân cầu đầy cứt
Thối như hố xí hai ngăn không đổ tro
Nhưng cũng đành chịu đựng
Bởi vòm trời này đâu phải chỉ có mình ta
Ngậm ngùi cám cảnh
Nhìn bầu trời bao la vô tận
Những ánh sao đêm nháy nháy bỡn cợt ta
Ông Trời còn chọc ghẹo giơ chim đái xuống mặt
Vuốt mặt bảo thơm, cho nông dân có nước cấy cày....
Còn đem lu hứng vội để uống dần
Tiết kiệm đồng nào tốt bấy nhiêu!
Ai bảo khổ như chó?!
Làm chó sướng lắm chứ
Không có cơm ăn cứt
Chả nghĩ suy chi chỉ sủa nhặng gâu gâu
Còn chúng ta?
Lỡ nói lỡ gào?
Nhà tù- cánh cửa mở rộng
Và những luật trừng phạt chỉ dành cho kẻ không tiền
Kẻ có tiền thì nhởn nhơ ỉa trên luật pháp
Chúng vẫn chống cặc vung lồn xưng bá đó đây
Ai bảo tôi điên! Ừ thì tôi dở người dở ngợm!
Tôi cứ xả vào đây ai ghét thì đừng xem
Coi như cứt tránh xa khỏi đạp trúng
Nhưng tôi vẫn biết rằng tôi không câm, không điếc giữa gian tà
Lạng sơn -Hoà Bình-Entry for November 29, 2007
Đi băng rừng lúp xúp khoảng nửa tiếng, ba con tôi đến khu lán trại của trường. Những căn nhà vách nứa mái rạ tuềnh toàng, trời Lạng sơn sẩm tối đổ lạnh, tôi tha thẩn chơi ngoài đống cát trong khi ba dọn đồ vào lán, quần áo tôi vẫn ướt hâm hẩm, ba là đàn ông nên không để ý thay quần áo khô cho tôi, tôi thấy rét nên đào cát thành cái lỗ và chui vào nằm rồi kéo cát phủ che người chỉ thò cái mặt ra, ấm ghê, và tôi ngủ ngon lành trong hố cát cho đến tối mịt ba ra gọi tìm nháo nhác tôi mới tỉnh dậy và lồm cồm dũ cát đứng dậy trả lời cho ba biết tôi đang ở đống cát. Quần áo thì khô nhưng đầy cát, ba kéo tôi đi rửa mặt thay đồ và ra nhà ăn của trường ăn tối. Những miếng bột mì luộc dầy to như cái đế dép Lào, nhão nhão, sống sống được cắt ra chấm nước muối ăn thay cơm, một tí canh rau rừng nhiều nước-lõng bõng húp cho trôi mấy cục bột luôc hôi rình mùi gián, thế thôi! May mắn là tôi đã lang thang ở nội trú nên ăn cái món dép lào luộc ấy vẫn còn ngon hơn món cháo hổ lốn ở nhà trẻ mà tôi từng phải nuốt mấy tháng trước. Tôi ăn no căng rốn, làm thêm bát nước lá gì mà tôi không biết và theo ba về lán để ngủ.
Mỗi sáng dậy theo kẻng, ba bắt tôi phải tập thể dục theo ba và chạy bộ vòng quanh khu lán trại, tôi vừa chạy vừa ho lụ khụ vì lạnh, cái đất Lạng sơn buổi sáng sương mù lạnh thấu da thịt, nhưng ba tôi bảo tập thể dục khoẻ người. Thỉnh thoảng cô cấp dưỡng dúi cho tôi bát cơm, mẹ đưa ba một gói ruốc mặn dặn ba cho tôi ăn thêm bồi dưỡng, thế là tôi bưng bát về lấy ruốc rắc vào bát cơm, rồi ngồi nhẩn nha nhai từng tí một, cái ngon lúc ấy thì không có cao lương mỹ vị gì bây giờ có thể sánh nổi.
Hàng ngày ba lên lớp giảng bài, tôi tha thẩn chơi ở gần cửa lớp với hai , ba đứa con của mấy giáo viên đem theo sơ tán, nghịch đất, đốt củi, xây nhà bằng mấy cục đá lượm ở đó. Chiều về, ba dắt tôi ra bến sông Kỳ Cùng tắm giặt, ba giặt đồ còn tôi thì cởi tuốt tuột vùng vẫy dưới sông vừa tắm vừa bắt cá, có hôm chơi lâu quá rét thâm tím cả môi mới chịu leo lên bờ trùm chăn.
Có một lần cách bến sông khoảng hơn 200 m phía bên kia sông- đất Trung quốc-ba tôi bảo thế, tôi nghe tiếng phèng gõ liên hồi, tôi lần theo bờ sông đi lại gần và xem họ làm gì. Cứ sau hồi phèng gõ liên hồi là thấy mấy chú bộ đội Trung quốc dắt ra một toán người đứng xếp hàng. Phèng ngưng là thấy họ đá mấy người xếp hàng ấy ngã quỳ xuống đất xong rồi phèng lại kêu lên chát chúa chậm hơn thì tôi thấy một vật như cái kiếm vung lên sáng loá cả mắt tôi và một người không đầu nằm sóng xoài ra đất. Tôi nín thở, không kêu được tiếng nào, mồm há ra sợ đến chết đi được mà chân thì không thể nhấc lên được- cứ như bị chôn chân xuống đó- tôi xem hết họ chém toán người ấy, thấy máu loang đỏ cả đất. Họ bỏ đi rồi, tôi bò bằng bốn chân về chỗ ba đang tắm và lắp bắp kể lại cho ba nghe, ba nhìn tôi nghiêm khắc bảo “Cấm con không được xem mấy cái chuyện ấy nữa”, ba bảo tôi đứng chờ và đi ngược ra phía tôi vừa bò về, ba quay về mặt ba tái mét. Hôm sau, ba bế tôi đi tắm ở chỗ phía dưới, xa hơn chỗ cũ cả cây số. Và chỗ đó trở thành bãi tắm giặt của ba con tôi. Nhưng dù có xa thì tôi vẫn cứ nghe thấy tiếng phèng la vài ngày lại một lần nhưng nghe nhỏ hơn nhiều so với âm thanh ở bãi tắm cũ.
Ở với ba thì sướng hơn ở nhà trẻ, nhưng không bằng ở với mẹ, ba tôi cứ thảy tôi chơi thơ thẩn một mình. Có lần tôi rủ mấy đứa trẻ ở cùng đi theo lối mòn sau khu lán đi vào rừng ăn quả bứa, đi mãi, mải chơi, trời về chiều, tụi nhóc tôi bị lạc trong rừng, mấy đứa kia khóc như ri chúm nhùm một đống, còn có mình tôi đi loanh quanh tìm đường ra, may mắn cho tôi là hay được nghe ba kể chuyện cổ tích cô bé bị mẹ ghẻ bỏ trong rừng, nên khi tôi vào rừng, ghé đâu hái trái là tôi bẻ cây làm dấu, tôi mò được mấy dấu bẻ cây ấy mà dẫn tụi trẻ con đi ngược ra, ra tới gần bìa rừng thì trời đã tối mịt mù, tôi nghe tiếng ba tôi gọi tôi thất thanh vang vọng, đi thêm chút nữa thì tôi thấy ánh đuốc lập loà nhiều lắm, tôi gọi ba tôi inh ỏi, ba tôi lao vào rừng thấy tôi tỉnh bơ, quần áo rách lung tung, ba gôm cả bọn lại dắt ra khỏi rừng. Về đến lán ở, ba bảo nằm úp xuống chõng, giơ mông ra, ba quất vào đít tôi tơi bời, tôi giật nảy cả người với mỗi roi quất xuống, thế mà tôi không khóc. Ba càng giận hơn vừa đánh vừa hét tôi. Hết đánh, ba kêu tôi ngồi dậy và bảo tôi “Con làm ba sợ lắm có biết không?” tôi khóc oà lên ôm cổ ba lí nhí xin lỗi rồi hứa sẽ không bao giờ làm thế nữa. Ba ôm tôi trong lòng vừa xoa mông tôi,vừa hỏi “Con có còn đau không? Ba giận quá nên đánh con sưng hết cả đít đây này!” Ba xoa mãi, nhưng vết roi đã chuyển thành màu xanh tím trên mông và lằn sưng lên như con lươn.
Mấy ngày sau, mẹ lại đón tàu hoả mang đồ ăn lên tiếp tế cho tôi, mẹ nghe ba kể lại chuyện tôi nghịch ngơm vậy và bị ba đánh sưng mông, mẹ lật đật vạch quần tôi ra xem, mông tôi lằn ngang lằn dọc, tôi hí hửng bảo mẹ “ba vẽ màu lên đít con”. Mẹ khóc sụt sịt, mẹ kếu ba ra nói chuyện gì đó. Sáng hôm sau mẹ dắt tôi đi lên tàu về Hà nội.
Về Hà nội được mấy ngày, tôi lại được mẹ đưa lên Hoà Bình ở với ông bà Tộ là chị gái của ông ngoại tôi.
Nhà bằng gỗ, cột nào cột nấy tôi ôm không hết vòng tay (vòng tay đứa bé 5 tuổi mà) nhà có cái hàng hiên, có cái bục gỗ ngay cửa ra vào, cánh cửa mỗi lần đóng là nó rên lên kèn kẹt. Tôi hay ngồi trên cái bục cửa ấy để nhặt rau cho ông bà. Bà Tộ dạy tôi vo gạo nấu cơm bằng củi, thổi lửa bằng cái ống tre nâu đen bóng loáng. Cái nồi thì bằng đồng, đít loe ra, miệng túm lại, nấu lần đầu tiên là được bà khen “thổi cơm khéo” bà bảo lần sau ghế cơm thì nhớ gạt than xung quanh nồi để cháy không bị đen ở giữa. Tôi được ăn cơm độn ít sắn, nhưng ngon hơn nhiều cái món bột mì luộc “dép lào” ở Lạng sơn và món cháo bột mì ở nhà trẻ.
Sáng sáng bà Tộ kéo tôi ra nương sắn sau nhà, cuốc đất vun luống. Ông Tộ làm cho tôi cán cán cuốc nhỏ gọn vừa tầm của tôi để cầm. Trưa về nhà, bà Tộ dạy tôi thái cây chuối để trộn cho lợn ăn, bà dạy cho tôi leo lên cối đá nhịp chày giã ngô nuôi gà. Tôi bé tẹo, mỗi lần đạp xuống là chùn hết cả người lại cho cái chày bật lên, khi chày giã xuống tôi như được bay lên vậy, phải túm lấy cái dây thừng mà ông bà treo vào tường ngang tầm với của tôi để khỏi bị bắn đi mất. Chỉ vài bữa vụng về là tôi biết cách nhún đúng nhịp để giã được ngô mà không mất sức hoặc bị hất té xuống đất. Ông bà xoa đầu khen tôi đảm đang.
Được vài tháng, tôi lại gây ra chuyện, chả là đi cuốc nương để trồng khoai, tôi lo cuốc đua với ông Tộ, không cẩn thận, tôi cuốc chân tôi, bật tung cả móng hai ngón chân, máu chảy đầm đìa, ông Tộ cõng tôi về nhà, rồi nhai thuốc Lào đắp chân tôi cho cầm máu. Đêm ấy tôi đau buốt chân, khóc rưng rức vì đau, sáng hôm sau chân sưng vù không đi được nữa. Nằm nhà đau đến nỗi không thể ăn được nữa, ông Tộ đạp xe về Hà nội báo cho mẹ tôi, tôi sốt lên hừng hực, bà Tộ đắp khăn ướt cuộn lá cho tôi mà tôi vẫn sốt mê man, chân sưng tím ngắt. Mẹ lên ngay cùng ông Tộ, đón tôi về Hà nội đưa tôi vào bệnh viện. Chả nhớ nổi mấy ngày nằm bệnh viện nữa, nhưng tới cả gần một năm sau, móng chân tôi mới mọc lại và nó vẹo sang một bên rất buồn cười.
Lần này thì tôi được ở lại với mẹ luôn ở Hà nội và ba cũng trở về từ nơi sơ tán. Tôi lại được ngủ chung với ba mẹ trong cái phòng con tí đã kể ở entry trước. Tôi lại được nằm giữa ba mẹ và líu lo “chân này, tay này cho mẹ, còn chân này tay này là cho ba”. Và ngủ ngon lành trên cánh tay của mẹ, thỉnh thoảng ngủ say quá quay ngược đầu gác chân lên cổ của ba. Và ngày thường ba mẹ đi làm thì chạy ra phố chơi với lũ con trai cùng phố, đánh nhau, đuổi nhau làm tụi nó sứt đầu mẻ trán, thế là chiều về bị mách lại bị ba quất cho vài roi sưng mông. Chừa vài ngày rồi lại tiếp tục, lại bị ăn đòn tiếp.
( Còn tiếp….về Hải phòng ở với bà nội, ông nội …địa ngục là đây…)
Thứ Hai, 26 tháng 10, 2009
Tuổi thơ lang thang.... Entry for November 28, 2007
Một dòng sông trôi
Một đời bão tố
Ngày ấy tôi còn là đứa trẻ lên ba, lại vì chiến tranh, nên mẹ tôi phải gửi tôi ở nhà trẻ nội trú ở một nơi xa lắc, tôi không còn nhớ được cái nơi ấy là nơi nào, chỉ nhớ rằng nơi ấy có luỹ tre xanh mọc đan cứng như bờ rào ba bên của nhà trẻ. Chúng tôi ngủ la liệt với nhau trên sàn đất đặt mấy cái vạt giường, mùa đông lạnh hun hút chúng tôi co quắp ôm chặt lấy nhau để cho ấm, tường nhà bằng tre đan trét đất lên che kín mấy khe hở của liếp tre. Cả lũ trẻ ngày thì chơi đùa cười vui, chiều đến là đứa nào đứa nấy buồn xo, kéo nhau ra hiên nhà ngồi ngóng ra cổng mong cha mẹ đến thăm. Đứa lặng lẽ, đứa khóc ti tỉ, đứa hu hu khóc đòi mẹ…dấu ấn của cô nuôi dạy trẻ thật là mờ nhạt trong ký ức tôi, chỉ nhớ mang máng hễ ăn chậm là bị cô tát bôm bốp vào mông vào mặt, khóc oà lên là cô tống ra đứng một mình chỗ bụi tre kẽo kẹt, đứa nào cũng cố phải ăn, phải nhồi cho hết cái món hổ lốn mỗi ngày cô cấp dưỡng đem lên phát, cả đám trẻ sợ ma đến vãi đái, chiều 4 giờ là phải ăn cơm, ăn không xong là bị ra đứng bụi tre nghe ma kẽo kẹt, tim đập liên hồi, có đứa bị phạt xong vào nhà sợ quá sốt nóng hầm hập, đêm ngủ la thét thất thanh. Hết đông đến hè, nóng như thiêu như đốt, mồ hôi ướt hết cả tóc, dính bê bết trên trán và lũ chấy bắt đầu hoành hành, bọn trẻ còn bé mà đã biết ngồi xây tròn lại bắt chấy cho nhau. Chiều đến các cô lôi ra giếng lột trần truồng cả lũ xối nước từ đầu đến chân, có đứa sợ nước khóc ré lên là bị cô nuôi tát cho đỏ lừ cả má. Có đứa đang ngẩn ngơ bị tạt nước lạnh vào mặt thế là sặc nước, ho tím cả người. Các cô mặc kệ, cứ kéo gầu múc tiếp dội tiếp.
Có một lần mẹ tôi lên thăm, mẹ tôi thấy chấy bò lổm ngổm trên đầu tôi như hạt vừng, mẹ lôi tôi ra chải đầu bắt chấy bắt được hơn trăm con , còn trứng chấy thì đầy măt tờ báo. Mẹ lôi hết mấy đứa con gái ra sắp hàng và chải lần lượt từng đứa, chấy quăng vào lò nổ lách tách. Khét nghẹt.
Mẹ về tôi lủi thủi chui vào góc nhà khóc rưng rức, tôi muốn theo mẹ về biết bao nhiêu.
Hơn hai tháng sau, vùng quê tôi ở bùng phát dịch viêm màng não, trẻ con chết bao nhiêu, ngày nào chúng tôi cũng được nghe tiếng búa đóng đinh vào gỗ cồng cộc- nghe các cô bảo nhau- họ đóng nắp quan tài cho con ông này bà nọ.
Mẹ lên sau khi dịch bùng phát mấy tuần, nhà trẻ tôi ở có hai, ba đứa bị viêm màng não đã được đưa đi đâu mất. Mẹ gom hết mùng màn chiếu gối của bọn trẻ ra , nấu nước sôi đổ vào, mua vôi bột rắc trắng xoá cả nhà trẻ và mẹ đem tôi đi theo mẹ về một nơi sơ tán ở đâu đó ở Hà Tây.
Mẹ về cái vùng toàn vải là vải, nhà nào cũng có vài cây vải, bao nhiêu là chùm lúc lỉu, tôi được ăn vải thả cửa đến nỗi mọc mấy cục nhọt tổ bố ngay trán, trên đỉnh đầu. Mẹ mua một con gà về luộc, tôi ăn gần hết, chỉ chừa cho mẹ gặm tí xương da ở trên lưng con gà.
Cơ quan mẹ ngày nào cũng tập cứu thương, chiến đấu, bắn súng, đánh nhau. Tôi rất thân với chú Quán và chú Dương cùng làm cơ quan của mẹ. Có một lần họ tập cấp cứu cứu thương, chú Quán phải đóng làm thương binh nằm trên cáng, mẹ và mấy người khác lăng xăng dùng băng quấn chú Quán kín mít, rồi khiêng chú Quán chạy về giao thông hào, tôi nhìn thấy và gào lên: “Trả chú Quán tao đây!” tôi chạy theo lúp xúp vừa khóc vừa giật băng trên người chú Quán, mọi người cười rộ và dừng lại để chú Quán lăn kềnh ra đất, tôi ngồi khóc sướt mướt vừa lay, vừa tháo băng cho chú Quán, mồm kêu lia lịa: “ Chú Quán ơi! Chú đừng có chết!”. Chú Quán vùng dậy tháo hết cả băng ra rồi bế tôi trên tay đu đưa: “ Chú Quán không chết đâu, chú Quán phải sống mà cõng cái Hương chứ” Chú quẹt nước mắt chú và chùi nước mắt cho tôi, hai chú cháu vừa đi vừa ríu rít nói chuyện dù tôi vẫn còn nức nở trong họng vì cái cảm giác sợ chú ấy chết. Chú Quán hái chùm vải mọng nhất bóc vỏ đút cho tôi ăn- cảm giác ấy thật ngọt ngào. Đêm ấy, mẹ và mấy người bạn tụ nhau ở nhà tôi ( nhà ở nhờ ở sơ tán) hát hò suốt đêm, chú Dương hát cho tôi nghe những bài hát du dương, tôi cuộn tròn trên lòng chú Quán- như con mèo con lim dim. Chú Dương hát hay lắm.
Ba tôi phải theo trường Đại học Bách khoa Hà nội sơ tán tận trên Lạng sơn, mẹ lại bị kêu về Hà nội trực chiến, mẹ đưa tôi cho ba mang đi Lạng sơn. Ba tôi và tôi đi tàu hoả lâu lắm, ngủ dậy thì đã chiều, tàu đổ khách xuống ga. Ba chở tôi trên cái xe đạp nam sườn ngang ở truồng chạy mải miết đến một bờ sông, ba bảo “ Đây là sông Kỳ Cùng” “ Con ngồi chờ ba ở bên này, ba đem đồ đạc qua trước rồi sẽ quay lại đón con” ba lội sông đi sang bờ bên kia, nước chỉ cao hơn đầu gối ba một tí, nước trong vắt chảy lơ phơ, đá cuội dưới lòng sông nhìn thấy rõ từng hòn. Ba đi khuất sau răng cây, tôi vớ ngay cái sào tre ai để ngay bờ sông và chống xuống sông lội qua như ba, nước đến ngực, lạnh buốt, quần áo tôi ướt hết. Tôi trèo qua từng tảng đá dưới lòng sông, vừa đi vừa nghịch, chọc cái sào tre vào đám cá đang bơi lăng quăng ở dưới sông. Đi gần đến bờ bên kia, trời tối sầm lại, ba tôi chạy xuống bế tôi lên tay, và leo thoăn thoắt lên bờ cao, cao lắm cỡ khoảng 10 mét chứ không ít, ba leo không kịp thở, đến nơi cao nhất ba tôi đặt tôi xuống đất và đứng thở hào hển, ba tát tôi hai phát vì cái tội cứng đầu không nghe lời dám tự lội qua sông. Tiếng hú rền rĩ kéo dài, tiếng nước gầm gào xa xa, ba và tôi đứng nghỉ , nhìn ra sông, nước kéo về sầm sập như thác, nước dâng lên trong chớp mắt chỉ thấp hơn chỗ ba và tôi đứng khoảng hai mét. Hoá ra mưa nguồn, lũ kéo về. Ba ôm chặt tôi trong tay ba, chắc ba nghĩ đến sự may mắn là tôi đã mò sang sông sớm hơn lũ về. Ba ôm chặt và hít hà mái tóc tôi.
Suốt trên chặng đường về khu lán trại của trường, ba tôi không rời bàn tay nhỏ bé của tôi ra một giây.
(Còn tiếp….tại vì bị gọi đi gấp)
Mùa hè Vinh Phú (Entry for October 19, 2007 )
Vĩnh Phú tháng 6, 7 /1972
Đường lên Vĩnh Phú không còn dễ như đi Hà tây, đường hư hao, nhỏ tí chỉ vừa một cái xe cam nhông là hết đường, dốc nhiều, lầy lội và không trải nhựa như bây giờ. Chiếc xe chở mấy mẹ con mình gồng lên, khói mịt mù trộn lẫn bụi bay đỏ rực, chạy một chốc lại phải chui vào lề đường cho mọi người tản ra vì máy bay quần thảo. Con Phương em mình cứ lả ra vì mệt sau trận ốm, mình và mẹ thay nhau bế nó, nó chỉ bú được tí sữa mà mẹ đem theo cho, ăn gì cũng ói mửa xanh mặt.
Đi từ sáng sớm, mãi đến gần tối mới lên tới nơi. Xe đổ mọi người ở một cái nhà - giống như là Uỷ ban- ngay đầu đường quốc lộ, bên cạnh một cái đập cống nước chảy rất mạnh. Một người đàn ông có cái băng đỏ trên tay, mặc quần áo như bộ đội, choàng ngang lưng cái xà cột dắt mấy chục phụ nữ và trẻ nhỏ đi vào làng. Mẹ con mình cũng giống như bao nhiêu người khác tay xách, nách mang, lưng đeo ba lô, riêng mình thì cõng em và xách túi nồi niêu đi theo bác ấy.
Với cái sức của một con nhóc mười tuổi, cõng đứa em trên lưng, thêm một cái túi đựng nồi niêu, tớ như rã chân ra khi phải leo qua hai ngọn đồi để tới nơi cái nhà lá vách đất đứng hiên ngang trên ngọn đồi thứ ba. Nhà tranh ấy tối mịt, hai gia đình được phân ra ở đấy- mẹ con mình và gia đình chú Ninh cô Châu, bé Thảo con cô chú.
Mẹ lục cục moi trong túi xách cái đèn dầu con tí, lôi thùng dầu hôi quý giá - chừng vài ba lít mà mẹ để dành mang theo châm vào cái đèn. Ngọn lửa mỏng manh sáng lên, mình vỗ tay reo vui vì nhờ nó mình nhìn thấy được cái chõng tre để ngay phòng ngoài. Mẹ mình chia nhà: Cô chú Ninh ở phòng trong với bé Thảo, bên tay phải cái phòng ngoài là chỗ ngủ của ba mẹ con mình, sát vách đất phòng cô chú là cái phản con cho thằng Quang em cô Châu. Chia xong, tất cả mọi người móc ba lô dọn bữa cơm tối bằng mấy nắm cơm khô cong mà đêm trước mẹ nắm, gói muối vừng không đậu phộng mặn lè được đổ ra cái lá chuối, ai cũng ăn ngon lành vì đói bụng và vì được xóc trên xe. Xong bữa, chẳng ai rửa ráy gì, tất cả leo lên giường ngủ mê mệt.
Sáng hôm sau, mình thức dậy sớm nhất nhà vì con gà nó gáy ngay đầu chỗ mình nằm, trời mới hừng hừng sáng. Mò đi thám thính chỗ ở mới. Đi ra bên hông nhà là cái vườn ổi và mít, vặt vội mấy trái ăn lót dạ, chát xít, cứng ngắc. Vòng ra sau lưng nhà là cái vườn củ mì ( sắn) cao ngang đầu, có mấy con chó vàng chạy rông sủa ngúc ngắc, không có ai, mình tè bậy ngay giữa hai luống sắn. Mát thế không biết. Đi theo con đường trước cửa nhà, xuống gần chân đồi, cái giếng tròn sâu hút, dòng cái gàu xuống giật mãi mới kéo lên được chừng ca con nước, vì có biết múc gàu bao giờ đâu! Sợ lạc đường, mình vội chạy ngược về nhà. Mẹ vừa thức dậy đang gọi mình ơi ới. Mẹ bắt mình thay cái áo mầu nhạt bằng cái áo màu xanh mà mẹ đã nhuộm bằng mực hồng hà, mẹ bảo mặc thế để nguỵ trang.
Ngày đầu trôi qua ở Lập thạch bằng cách mẹ dẫn hai đứa mình đi chào bà con láng giềng, nhà bác Khẩn, nhà cụ Khẩn- bố mẹ của bác Khẩn, nhà bà Thản chỗ cô Phượng đồng nghiệp của mẹ đang ở nhờ, nhà bà Đãi có bầy gà tuyệt hảo…. Mình không còn nhớ rõ nữa.
Lần này, nồi cơm nhà mình không còn độn khoai lang nữa… mà độn sắn, mấy bữa đầu thì khoái chí vì được ăn sắn, sau thì nhìn thấy sắn là ngán phát khiếp. Mỗi tuần mẹ lại giã cạch cạch một lọ muối vừng, nhưng ở Lập thạch thì có lạc để trộn vào. Thỉnh thoảng lắm chúng tớ mới có dịp được ăn thịt lợn, vì hồi đó các loại thực phẩm phải mua bằng tem phiếu, kể cả mua mỡ đông lạnh của Trung quốc, nó nổi mốc xanh lè . Mỗi lần mua mỡ là tháng đó phải nhịn ăn thịt. Còn thịt gà thì phải đổi với mấy bác nông dân bằng suất mì độn của tiêu chuẩn phân phối lương thực.
Hồi đó nông dân bị cấm giết heo, giết trâu bò- heo, bò, trâu chỉ được nuôi và phải bán cho nhà nước, nhà nước thu mua toàn bộ. Gạo thu hoạch xong thì phải nộp nghĩa vụ gần hết, họ là nông dân nhưng họ còn ăn độn hơn cả bọn mình.
Mẹ thương tụi mình ăn không đủ chất, đủ lượng, mẹ đem mấy gói mì chính được phân phối khoảng 20 gr đổi lấy bầy gà mái cánh tiên đem về cho mình nuôi, cũng được bốn con. Mình nuôi hơn tháng sau thì con gà trắng đốm của mình đẻ trứng. Mấy trứng đầu, vừa đẻ ra là mình lấy đũa chọc thủng bắt con Phương húp sống cho nó khoẻ. Con bé lúc đầu sợ kinh, sau đó thì thích chí lắm, cứ nghe con gà cục tác là gọi chị ầm ĩ. Rồi bốn con đều đẻ cả, chị em mình và mẹ có trứng luộc, trứng chưng trong bữa cơm. Mình đi mót lúa, trộm ngô, đào giun chăm cho gà, tụi gà thương mình lắm bọn nó đi theo mình lũn cũn như mấy con chó con vậy.
Nhớ mấy tuần đầu, mẹ, cô chú Ninh, thằng Quang, mình phải làm hầm trú tránh bom, cái loại ấy gọi là hầm chữ A, ngay cạnh nhà. Đào một cái hố khoảng rộng 80 cm dài 2 m sâu ngang đầu mình, rồi đi chặt tre về lợp như cái kèo trên nóc hố, lấy đất đào ra trộn với rạ khô và nước đắp lên trên cái kèo dày lắm, sau đó đi lấy từng vạt cỏ phủ trùm lên nóc , đi xin rơm về bện thành con cúi quấn vòng vòng lại sau đó buộc vào nẹp tre che thành cái cửa hầm. Mỗi khi nghe tiếng máy bay ầm ì là cả nhà chui tọt vào căn hầm ấy ngồi tới khi nào hết nghe tiếng bom , tiếng máy bay mới chui lên. Cảm giác của chiến tranh ăn sâu vào ký ức của mình như thế đấy.
Và lúc ấy, trai tráng trong làng gần như là không có, trong làng chỉ toàn ông già bà lão, trẻ con, và lớn tuổi trung trung cỡ như mẹ mình. Hồi ấy thanh niên chưa kịp lớn là đã nhét chì vào giầy để đủ cân nặng để đi bộ đội. Mình nghe lỏm từ các câu chuyện của mẹ mình với láng giềng, cha mẹ họ bảo rằng “Nó đi bộ đội mới được ăn cơm no”, và mình cũng ước ao lớn lên đi bộ đội vì mình sẽ được ăn như họ.
(Còn tiếp Vĩnh phú mùa thu-đông ….)
Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2009
Tuoi thơ nơi địa ngục 3
Cú ở trần truồng chịu phạt làm tớ bị viêm phế quản, viêm phổi phải vào nằm khoa Nhi của bệnh viện ông nội làm giám đốc.
Phòng rất nhiều trẻ con, đứa nào cũng được bố mẹ chăm sóc, chỉ mình tớ nằm chèo queo, thỉnh thoảng ông nội chạy vào khám cho cháu, còn cháo thì bệnh viện phát cho. Tụi kia mỗi lần bác sĩ, y tá vào chích thuốc, làm thuốc, chúng nó khóc la oe óe, bố mẹ dỗ dành giữ tay giữ chân để y tá làm, còn tớ biết thân biết phận, có khóc cũng chả ma nào biết, nên đành chịu, đau cũng cắn răng mà chịu, chích penicilline đau kinh khủng, mông cứ sưng như trái chanh , đầy mông… có cô Diệp y tá thương tớ một mình, mỗi buổi tối, cô cho cái chườm nước nóng bằng cao su của Liên xô chườm đít. Bà nội thì chẳng thèm ngó ngàng gì đến tớ, tuần đầu tớ nằm bẹp trên giường ho sù sụ, mắt mũi đỏ kè, thêm cái bệnh hen di truyền từ ba tớ nữa nên cứ phải cầm cái lọ thuốc có cái nắm cao su ngậm vào mồm xịt xịt. Đến tuần thứ hai tớ đỡ hẳn, nhưng tớ mè nheo với ông nội để nằm nữa, vì sợ bà quá, tớ không muốn về nhà. Ông cho nằm thêm một tuần – đúng là một kỳ nghỉ đáng nhớ- chơi với mấy đứa kia, nhõng nhẽo cô Diệp từ cắt móng tay đến gội đầu, đủ thứ. Bà nội vẫn tiệt không thèm léo hánh ngó xem tớ sống chết ra sao…Mãi sau này tớ mới biết là bà giấu nhẹm chuyện tớ bị sưng phổi với mẹ tớ.
Ra viện về nhà, buổi sáng đầu tiên được bà phát cho hai miếng bánh mì khô sấy tẩm đường mà mẹ tớ gửi về cả thùng vài ký. Rồi chả bao giờ thấy phát lần hai. Bà lại bắt phải theo đúng nội quy cũ mà làm. Mà tớ nói thật, tớ bắt đầu ương bướng sau vụ ốm nặng ấy, tớ cãi vung lên với bà nội mỗi lần đi học về trễ giờ quy định, ăn đòn thì ăn đòn, vết roi chồng lên vết roi, tớ đếch kêu đau nữa, cứ lỳ cái mặt ra cho đánh, tát, dúi đầu vào tường côm cốp, roi mây vút đét đét chả là cái đinh rỉ gì mới tớ…mỗi lần bị đánh tớ cứ mở tròn mắt ra nhìn bà nội trừng trừng….
Mấy tháng sau, bà nội đổi chiêu giáo dục kiểu khác, đi trễ về nhà là phải cắm đầu nấu cơm, đến khi dọn ra ăn, cái bàn ba người thì ông bà ngồi ghế, bà nội bắt tớ quỳ dưới đất, ăn cơm nhạt – không mắm muối, không rau, không thức ăn gì hết…Ông nội im lặng, chỉ lúc lắc cái đầu…chả biết ông muốn nói cái gì.
Có khi tớ ăn cơm nhạt quỳ kiểu ấy tới ba lần trong một tuần. Bà Trác cũng biết chuyện ấy, lắm lúc bà Trác chờ tớ bê mâm bát đũa đi rửa ngang qua nhà bà ấy là bả lại cầm ra cho khúc bánh mì tây với bơ, đường ( Hồi xưa chỉ có mấy ông bà có con đi Liên xô thì mới được con gửi cho mà ăn) Cao lương mĩ vị bây giờ làm sao mà bằng được cái cảm giác được ăn miếng bánh mì bố thí ấy. Nhớ miết, không bao giờ quên.
Năm tháng vẫn qua đi như thế, tớ cũng chẳng ngoan hơn ngoại trừ cái danh hiệu học sinh giỏi hang tháng, ngày ấy xếp hạng học trò là thứ nhất, nhì ba, rồi lần lượt các thứ hạng sau đó. Tớ thì cứ nhất với nhì thôi.
Mùa đông kế tiếp lại đến, mẹ tớ gửi cho tớ một cái khăn choàng do một ông Liên –xô tặng…bà nội không cho đội, bắt đội cái khăn vải mùng xanh lem nhem, tớ len lén lấy trộm khăn mẹ gửi nhét vào cặp, ra đến đường mới choàng lên, vừa đẹp vừa ấm… ai biết đó là lý do để bà bắt phạt nữa. Về nhà chân sáo vì bạn bè khen Hương xinh thế, quên mất cất cái khăn mẹ cho. Về tới cửa, bà nội xông ra, giật cái khăn quàng ấy, bà cắt ra từng mảnh, vả cho mấy cái vào mồm vì tớ cãi lại bà, cho rằng khăn mẹ gửi thì tớ có quyền dùng, bà nội thì bảo mới nứt mắt đã đĩ thõa, dối trá… bà nội kéo tớ xềnh xệch ra khu nhà xí riêng của khu tập thể ( mỗi nhà có một nhà xí riêng biệt khóa cửa lại sau khi sử dụng) cách nhà hơn 100m. Bà nội mở cửa nhà xí ra, tống cổ tớ vào đấy, khóa cửa bên ngoài lại, trời đã nhập nhoạng tối, trong nhà xí ấy vừa hôi, vừa tối.
Để tớ miêu tả lại cái nhà xí ấy cho mọi người nghe. Nhà xí là tiếng người bắc gọi cái nhà cầu, chỉ dung để đi ị thôi. Nhà xí ấy thuộc loại tử tế hồi đó, nó giống xí xổm ( ngồi xổm để ỉa) mà mấy cái bệnh viện trong Nam vẫn sử dụng. Rộng khoảng 8 tấc (80cm) dài cỡ 1.3m mà bệ xí xổm chiếm hết 65 cm, còn một khoảng trống ở phía trước bệ xí là 65 cm rộng 80 cm, có một cái sọt để giấy đã chùi, một cái xô để xách nước, trên tường găm một cái que nan xe đạp ( Trong nam gọi là căm xe) dùng để cắm giấy xén chừng bằng bàn tay, khi ị xong thì lấy để chùi đít.
Tớ ngồi bệt xuống cái sàn trước bệ xí, đói, muỗi cắn, tối đen, lạnh…giam đến hơn 7 giờ tối, bà nội xuống hỏi tớ có chịu nhận lỗi chưa, tớ trả lời: cháu không có lỗi, mẹ cháu cho, cháu đội khăn không có gì sai, bà bảo chưa biết lỗi thì ngồi tiếp. Càng đêm xuống càng lạnh , lúc tớ đứng lên nhảy cò cò, lúc chống tay vào tường hít hít kiểu hít đất cho nóng lên, chán lại ngồi, gần 10 giờ đêm, ông nội xuống mở cửa tha cho tớ ra, bà đâu chả biết, thế là tớ bị giam gần bốn tiếng đồng hồ trong nhà xí! Về đến nhà thì bà đã trùm mũ ngủ, thay bộ đồ ngủ trắng tinh đang nằm nghe radio, ông bảo tớ lau mình sơ sơ thôi rồi thay quần áo để đi ngủ, không cần học bài tối nữa.
Trẻ con thì cũng nghịch cũng phá, tớ bị phạt nhốt nhà xí thêm mấy bận, nhưng sau này tớ rút kinh nghiệm, biết là bị bắt nhốt là thủ theo cái bao diêm ( quẹt cây) và một tờ báo nhét vào bụng, mà phải giấu bà, nếu bà biết bà sẽ tịch thu. Bà nhốt tớ vào , vừa khóa cửa là tớ trải báo ra cái chỗ sàn con con ấy, lấy giấy báo xén sẵn se se lại như cây đóm, đốt lên, vừa sưởi vừa có ánh sáng thế là ngồi hát ông ổng. Nếu bị nhốt lâu quá, cái lần cả ông lẫn bà đều quên, nhốt tớ đến sang hôm sau, tớ đốt đến cả giấy đã chùi đít rùi, nó vừa thối, vừa khét kỳ cục lắm. Những kỷ niệm này nó hằn vào ký ức tớ như những vết thương không bao giờ lành lại. Ngay cả lúc này đây, viết những dòng này, tự nhiên tớ ngửi thấy mùi giấy dính cứt đang cháy nữa chứ!
Còn nhiều và rất nhiều những cú bị phạt trời ơi đất hỡi, nhớ lại chỉ khiến tớ đau đớn và hận.
Tớ cám ơn Mỹ bỏ bom Hải Phòng, vì nhờ có nó, tớ mới được mẹ tớ đội bom đón tớ về lại với bố mẹ… rời xa cái địa ngục kinh hoàng ấy…..( Nói cám ơn Mỹ thế này thế nào cũng bị súp pờ soi cho coi)….Giả sử thêm vài năm thế nữa thì có lẽ tớ sẽ thành một con thú man di, man rợ…..
Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2009
Gặp nhau 23/10/2009
Cười mà tét mỏ! ai có hình show hàng nhớ trả tiền tui nghen .Mèng, có dứa năn nỉ tui bỏ cái hình nó ra, mà sao nó hem trả tiền dzị cà!
Thứ Năm, 22 tháng 10, 2009
Tuổi thơ địa ngục.....
Hình này là mẹ đón về lại Hà nội sau mấy năm ở với bà nội (1973)
Tuổi thơ ở địa ngục
Tám tuổi đầu mẹ đưa tôi về Hải phòng cắt amidal ở bệnh viện Việt Tiệp, nơi ông nội tôi đang là giám đốc bệnh viện. Ông bà nội tôi ở một căn nhà có ba phòng trong khuôn viên bệnh viện, kế bên có mảnh vườn cỡ 50 m2 trồng cây bồ ngót, mấy cây ớt, hũ hoa và cây bông rằn vàng…cái chuồng gà có mấy con gà lộc ngộc sáng sớm ra là gáy inh ỏi.
Chơi vài ngày là tôi phải vào phòng mổ cắt amidal, sợ hãi kinh khủng khi thấy cái khay đựng dụng cụ sáng choang và ông bác sĩ to đùng mặt lạnh tanh bảo tôi há mồm ra, cái ông tiêm kim to như que đan dài ngoằng thọc vào họng tôi đau nhói, và sau đó tê cứng hết cả họng, mắt trợn tròn tôi á khẩu nhìn bác sĩ làm việc, cái ống có gắn sợi dây thòng lọng như dây đàn thọc vào họng tôi- nghe một cái phựt- ông ấy lôi ra cục thịt đỏ lòm. Một cái tiếp nữa xong- cái ống tiêm kim dài ngoằng lại chọc vào họng tôi một lần nữa và họ bảo tôi đi ra ngoài phòng ngoài nằm. Ra ngoài dáo dác tìm mẹ, thấy mẹ tôi thấp thoáng ngoài cửa tôi ngủ thiếp đi trong sợ hãi. Cô y tá lay tôi dậy bảo hả họng cho cô xem rồi cô đưa tôi cục nước đá ngậm vào, cái lạnh làm tan bớt cái đau rát ở cổ, tôi muốn gọi mẹ, nhưng tôi chỉ ú ớ không ra tiếng.
Một tuần liền tôi là một con câm, mẹ tôi chăm tôi từng tí một, đến ngày thứ tám, ông nội tôi bảo “ Cháu nói AAAAA đi xem nào” tôi há mồm ra nhưng âm phát ra nhỏ xíu, ông nội bảo được rồi và bảo mẹ về Hà nội đi. Tôi muốn về theo mẹ, nhưng ông nội không cho, ông bảo “Mẹ cháu gửi cháu ở đây luôn với ông bà mà” tôi khóc không thành tiếng, mẹ xách ba lô đi rồi.
Bữa trưa ấy bà nội nấu cơm với cá chiên, tôi không làm sao mà nuốt được, một phần bị đau họng chưa lành, một phần mẹ cho ăn cháo nguội cả tuần quen rồi, tôi nhai trệu trạo cố nuốt vào thì bị ói ra, bà nội tôi quắc mắt lên: “mày mà không nuốt vào thì tao đánh cho vỡ mồm!” Tôi vừa nhớ mẹ vừa tủi thân vừa ăn vừa khóc, không may cá lại lắm xương, tôi bị hóc, ói lung tung. Bà nội đứng lên xông ra chỗ tôi ngồi vừa tát tôi bôm bốp vừa chửi: “ Con mẹ mày chiều mày cho lắm nên chừng này tuổi đầu mà ăn cá không biết gỡ xương” Bà đánh tôi đau thật, sau mỗi cú tát là đầu tôi bị đập xuống bàn ăn cái bộp, không biết mấy cái nữa, ông nội mới hét lên: “Nó chưa khỏi hẳn, bà muốn đánh nó chết à??” Bà nội mới dừng tay. Bữa cơm ở nhà ông bà nội- không có mẹ- đầu tiên đã diễn ra kinh hoàng như thế. Cho đến giờ tôi vẫn còn chưa quên buổi trưa đó- nghĩ đến là thấy uất nghẹn muốn trào nước mắt.
Bà nội kêu tôi đi ngủ trưa đúng một tiếng rồi dậy cho bà dạy dỗ. Tôi nằm trên giường cắn chặt cái mép gối mà khóc, không dám khóc có tiếng vì giường bà gần nay giường tôi, bà để cái roi tre ngay mép giường của bà.
Chuông đồng hồ reo lên, tôi bật dậy xếp gối lại ngay ngắn, và ra phòng khách. Bà nội ngồi đó mặt nghiêm nghị, bà chỉ cho tôi ngồi vào cái ghế gần bà. Bà bảo tôi: “Mày ở với mẹ mày vô kỷ luật quen rồi, bây giờ bà phải huấn luyện lại mày nghiêm khắc để thành con ngoan trò giỏi” Bà đưa cho tôi cái nội quy mà bà viết ra bắt tôi học thuộc, phải đọc to rõ ràng cho bà nghe, đọc cả mười mấy hai chục lần như thế, tôi phát ho rát cổ và văng ra cục máu tươi vì đã cố gắng quá sức. Ông nội thì đi làm rồi. Bà thấy thế bảo tôi vào uống ly nước lọc cho nó cầm máu. Sau đó bà cho tôi cái thời khoá biểu làm việc và học bảo tôi thuộc lòng- thời khoá biểu còn ghi rõ cả hình phạt nếu tôi vi phạm nội quy và thời khoa biểu.
Buổi huấn luyện đầu tiên xong thì cũng gần 5 giờ chiều, bà nội kêu tôi lấy xô nước giẻ lau đi lau bàn ghế tủ, bà đi nấu cơm, lát lát bà ra lấy ngón tay quẹt khe ghế, chân bàn và gọi tôi lại dúi mặt tôi vào mắng tôi làm ẩu và bắt tôi lau đi lau lại chỗ đó mười lần.
Đúng sáu giờ ông về, ông tắm rửa thay quần áo, ngồi vào bàn ăn cơm. Tôi ngồi bên tay phải của bà nội. Rút kinh nghiệm buổi trưa, tôi ăn cơm với nước mắm cho chắc ăn, đang ngồi nhai cơm, tôi chống khuỷu tay lên bàn, bốp một cái như trời giáng, văng cả bát cơm, định thần nhìn lại thì hoá ra bà nội đang tròn xoe mắt giận dữ dòm tôi, tôi ngơ ngác không biết sao bị đánh thì ông nội nói với tôi rằng “trong bàn ăn mà chống tay lên bàn như thế là thiếu giáo dục- không được làm thế nghe”. May quá, nhờ có ông nội mà tôi chỉ bị mỗi cái tát đến văng bát mà thôi!
Khệ nệ bê mâm bát đi rửa chỗ bếp tập thể xa cả trăm mét, tôi vừa đi vừa nghỉ đến hai bận, tôi thì bé con, chỗ rửa thì cao, loắng ngoắng thế nào tôi đánh vỡ một cái chén ăn cơm, ngồi nhặt mảnh chén bể, nhớ nội quy là bể một chén thì bị đánh ba roi vào mông. Tôi cố gắng không bể thêm cái nào nữa. Bưng mâm về tôi khai báo thành thật với bà nội là tôi làm vỡ một cái chén, bà bảo lên giường nằm úp xuống, tụt quần qua khỏi mông. Tôi nằm lên giường và chờ đợi. Ngọn roi đầu quất xuống như xé thịt, tôi á lên một tiếng, bà bảo bà đánh thêm một roi vì cái tội la khi bị đánh. Tôi cắn vào cánh tay kê ngay mặt thật chặt để khỏi la lên, xong xuôi, sờ mông bốn lằn nổi lên như con lươn và cẳng tay tôi tím bầm dấu răng tôi cắn. Nước mắt tôi ngập ngụa và tôi chỉ biết thổn thức khi xách thùng sen đi tưới cây ở vườn.
Ngày đầu tiên ở với ông bà trôi qua như thế. Mẹ đã về Hà nội mất rồi! Tôi đi ngủ với cái khăn quàng của con bé Phương (tôi lén mang theo vì nhớ mùi nó) nhét vào mồm cho không bật lên tiếng khóc nức nở.
(Còn tiếp…)
Tuổi thơ nơi địa ngục ( phần 2)
Một tuần trôi qua trong bao nhiêu bạt tai và ký đầu với hai trận đòn sưng mông, tôi bắt đầu khép mình vào gần như nội quy và thời khoá biểu bà đặt ra.
Tôi nhớ mẹ và nhớ em da diết, nhớ ông ngoại công kênh đi chơi ở nhà ông Hoài Thanh, nhà ông Đức …. Chưa biết tìm đến cái chết nhưng tôi tìm đến chú gà trống choai bà nuôi mà ôm nó vào lòng thủ thỉ nỗi nhớ nhà với nó mỗi khi đến giờ làm vườn. Chú gà còn trụi lông đít nhưng ra chiều hiểu biết, nó sà vào lòng tôi mổ thóc trên tay và quẩn quẩn chà cái lưng nó vào đùi tôi sau khi ăn no. Tôi đánh bạn với chú gà trống ấy.
Ở bên cạnh nhà bà có nhà bác sĩ Trác, hai ông bà có cô cháu gái tên là Tố Nga, tôi cũng mới chỉ biết thế, vì bà nội cấm không cho nói chuyện với hàng xóm. Nhưng mỗi lần tôi đi ngang qua, thấy Tố Nga ngồi ôm cổ bà nội nó nhõng nhẽo là tôi phải chạy vụt qua thật nhanh không thì tôi sẽ khóc vì ganh tị. Tố Nga cũng ngang tầm tuổi tôi, da trắng môi hồng, trong xinh đẹp đài các. Bạn ấy được yêu chiều lắm.
Đến đầu tháng chín trời hơi se se, tôi bắt đầu đi học, bà xin cho tôi học ở trường cấp I Nguyễn Văn Tố - hình như là đường Lê Chân hay Tô Hiệu gì đó. Từ nhà đến trường khoảng 20 phút đi bộ thật nhanh, nếu đi la cà là hết 35 phút. Bà nội thêm vào nội quy là đi học lúc 6 h 15 và về nhà lúc 11 h45, thời gian thức buổi sáng từ 5 giờ đổi thành 4 giờ. Lúc ấy tôi chỉ còn mỗi phương pháp là chạy -vì trống trường vào học lúc 6h30 và tan trường lúc 11h30.
Sáng dậy lúc 4 giờ, tôi phải đặt nước pha trà, nấu nồi cơm sáng cho ông bà nội, lau bàn ghế, lau quét nhà xong mới được đi học. Có hôm xong sớm muốn đi sớm thì bà không cho vì bà sợ tôi chơi rong ngoài đường. Cứ 6h15 là tôi cột chặt cái cặp vào người và nhét đôi dép nhựa vào cặp là bắt đầu chạy, chạy đến nơi trống trường vừa đánh, tôi vào xếp hàng vào lớp mà mồ hôi đổ nhễ nhại như đi cày. Mấy đứa bạn mới thấy lạ dòm tôi như con hủi lạc đâu vào, tôi thì hung hăng trừng mắt sẵn sàng đánh lộn. May quá mấy tuần đầu tôi chưa phải đánh nhau chỉ mới trừng mắt nhìn. Cô giáo kiểm tra bài từng đứa, cô khen tôi học giỏi viết chữ đẹp. Trống trường tan học là tôi vội vàng nai nịt chạy về cho kịp giờ. Về tới nhà thở hồng hộc, cất cặp sách vào bàn rồi đi dọn cơm ra cho ông bà ăn cơm trưa.
Đến tháng mười trời lạnh, bà nhuộm cho tôi cái vải mùng bằng mực xanh để tôi đội đầu, khăn choàng mẹ đưa bà bảo điệu, bà không cho choàng. Buổi trưa nào cũng chạy khiến tôi mệt rã người, thế là có một hôm tôi đi bộ từ từ về nhà, hôm ấy tôi về lúc 11h50, bà đã đứng trước cửa nhà chờ sẵn, bắt tôi nằm trên giường phạt năm roi vì cái tội về trễ, tôi cố gắng giải thích cho bà rằng tôi mệt nên đi chậm, nhưng bà không nghe vẫn phạt tôi đủ năm roi và ăn cơm nhạt buổi trưa ấy- cơm nhạt là cơm không- không thức ăn, không mắm muối- đói quá tôi vẫn phải ăn cho nó đầy cái bụng. vừa ăn vừa tức. Đến khi bê mâm đi rửa bát chén, tôi dằn mạnh cái mâm thế là chiều đó tôi được xơi thêm sáu roi vì cái tội dằn dỗi làm bể hai cái chén ăn cơm. Ăn cơm nhạt đối với tôi là một cực hình, vì tôi hay ăn mặn từ nhỏ, và chuyện này diễn ra liên tục suốt hai năm rưỡi ở với ông bà.
Tôi trở thành một con sen cao cấp, do còn được đi học chữ, nhưng mầm mống chống đối bắt đầu trỗi dậy trong tôi. Tôi trở nên lầm lì ít nói, bà tức lắm thế là đến gần cuối năm 70, bà lấy kéo cắt xoẹt mớ tóc dài mẹ nuôi cho tôi- bà cắt theo hình cái tô úp trên đầu- bà bảo cắt cho mày xấu để mày nên người!
Bà mua dép cao su ( giống như của bộ đội Trường sơn) bắt tôi đi, bà bảo như thế mới giản dị lại đi nhanh hơn. Quần áo mẹ tôi mang cho tôi bà cất hết, bà cắt quần đen cũ của bà, may cho tôi hai bộ đồ bà ba đen bảo tôi mặc đi học để không chảnh choẹ với các bạn, với cái áo trấn thủ của ông nội rộng thùng thình mặc trong cái áo bông cũ của bà sửa lại. Bà chỉ biết may áo quần bà ba vì bà là dân miền Nam- Rạch giá -đi tập kết theo ông nội. Và bà cũng thích đánh tôi để nghe tiếng roi vụt vào mông tôi chát chát. Mãi sau này khi về Sài gòn tôi mới được ông cậu Bảy kể lại là bà là con thứ ba của ông Hội đồng Khương, nổi tiếng ở vùng Rạch giá, ngày còn trẻ bà học ở Gia long áo tím, và bà hay về vào hè để đi thu tô với cái roi cá đuối trên tay để đánh nông dân thiếu tô nộp.
Tôi ăn mặc như một con sen thực thụ, và làm tất cả chuyện nhà thay cho bà, chỉ có khi nào bà nấu món mới thì tôi mới không phải làm mà chỉ đi theo học hỏi.
Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi phải chịu một hình phạt dã man nhất đó là vào khoảng tháng ba năm 71, vì tôi đi chợ làm rơi mất tiền, bà bảo tôi ăn cắp đi chơi, tôi không chịu, tôi chỉ nói với bà là tôi đánh rơi khi vào chợ An Dương , bà không tin và bà lột hết quần áo tôi ra bắt tôi quỳ ở ngoài sân trước bậc tam cấp. Trời đổ lạnh ghê người- tôi không một manh quần áo che thân- tôi quỳ ở sân run cầm cập vì lạnh. Bà đóng cửa cái rầm sau khi bảo tôi rằng bà chỉ tha cho tôi khi nào tôi thú nhận tôi ăn cắp tiền của bà! Trời về chiều đổ lạnh hơn, tôi cắn răng chịu đựng, dứt khoát không nói theo bà ép. Mấy tiếng sau, chú Dũng con ông Lê Đức Thọ đến chơi, chú nhìn thấy tôi tím tái hết cả người, chú ấy lấy áo bông của chú choàng qua cho tôi và bế tôi vào nhà bếp tập thể của bệnh viện để sưởi. Tôi thấy nước mắt chảy ra trên má chú, tôi ngả đầu vào vai chú khóc nức nở, vừa khóc tôi vừa nói chú nghe tôi đi chợ nhảy chân sáo làm rơi mất tiền và bà phạt cháu. Thấy tôi ấm lên rồi và ho khù khụ, chú bế tôi về nhà, chú trách bà sao làm như thế, lỡ nó sưng phổi thì làm sao nói với ông với mẹ tôi. Bà quắc mắt lên mắng chú bênh tôi là chỉ làm hư tôi thôi, thế rồi chú Dũng kéo bà vào phòng trong, hai người nói chuyện gì đó một lúc, sau đó bà ra và bảo “nể tình chú Dũng lần này tao tha” bà quăng cho tôi cái mớ quần áo bà lột của tôi bảo tôi mặc vào.
Đêm đó tôi sốt lên 39 độ, ông nội thì đi trực suốt đêm không về. Bà cho tôi một viên thuốc gì đó uống. Tôi nằm bẹp trên giường không thức dậy nổi vào tờ mờ sáng hôm sau…..
(Còn tiếp….3)
Tuổi thơ tui (1)
Năm 1972
Máy bay Mỹ bỏ bom Hải phòng , Hà nội, tiếng súng tiếng bom vang rền , còi báo động hú lên từng chặp. Mỗi lần còi hú là lũ nhỏ tụi mình chui xuống cái gầm cầu thang, hay gầm phản, cứ cho thế là an toàn.
Mẹ đưa hai chị em mình lên Hà tây, Vĩnh phú để sơ tán, một lô xích xông trẻ nhỏ và phụ nữ được chở trên cái xe cam nhông không mui , không ghế. Quần áo chỉ được phép mặc màu tối sầm. Đi lúc 4 giờ sáng, tờ mờ chưa tỏ mặt người. Xe phải lao nhanh trên đường kệ mẹ ổ gà ổ chó, phải chạy cho nhanh để tránh giờ có còi báo động, xe xóc tới lòi cơm lòi rau nhưng người lớn ai cũng im lặng, chỉ có trẻ con là líu ríu nói và khóc ri rỉ, chiến tranh mà.
Đến vùng đầu tiên lúc sơ tán là Hà tây, cách Hà nội vài chục cây số, nhưng trong ký ức mình lúc ấy đường như xa lắm vậy.
Xe đậu ở đầu làng, nơi có cái cổng làng cũ cũ rêu xanh và bụi tre kẽo kẹt. Mẹ con mình ôm lếch thếch đồ đạc nồi niêu xoong chảo đi theo con đường làng vào nhà dân để ở nhờ. Cái nhà mà cơ quan mẹ mình liên lạc cho tụi mình ở nhờ có bà chủ chồng đi bộ đội, tên bà ấy là Gần. Tới nơi, bà ấy chỉ cho mẹ con mình ở cái chái nhà nhỏ xíu xiu, có một cái phản gỗ chằng chịt sẹo, cứ như là cục xương bị chó gặm nham nhở, nó còn cập kênh nữa chứ, hai mẹ con mình hì hụi mãi mới kê lại cho nó khỏi đổ chổng kềnh khi nằm lên. Con em mình còn bé tí, mới ba tuổi thì ngồi ngoài hiên bốc kiến chờ mẹ và chị sắp xếp đồ đạc. Xếp xong chỗ ở thì cũng đã trưa, bà Gần chỉ chỗ cho mẹ và mình nơi rửa- một cái góc khuất sau bể nước bên hông nhà- không nhà tắm, nhà xí và dặn rằng “phải tiết kiệm nước, không được đổ nước ra sàn rửa trực tiếp mà phải đổ vào thau, rồi rửa xong dùng nước ấy cho việc khác nữa.” Bà ấy còn chỉ cho mình chỗ tắm hàng ngày ở “Vực đàn bà” và nếu đàn ông thì phải sang xóm bên, tắm ở “vực đàn ông”, mỗi chỗ ấy cách nhà mình ở khoảng gần cây số, mình còn nhớ là đi cả 15 hay 20 phút mới ra tới vực đàn bà. Ngay lúc ấy mình lót tót đi theo bà Gần ra vực Đàn bà - một cái ao to lắm ( Hay là tại mình bé quá)- bà ấy kể trận lụt năm ấy lâu lắm rồi vỡ đê, nước xoáy vào trôi cả cái đình làng to nhất làm thành cái vực này, sâu mấy cây sào tre ấy, dân còn bắt được con cá chép nặng cả tạ, vây vảy xanh đen, dân không biết xẻ thịt ăn thế là bị thần hoàng phạt vạ cho ốm đau cả làng, làng phải cúng bao nhiêu trâu tạ lỗi mới hết bệnh dịch. Mình thích chí lắm, mặc cả quần áo nhảy ùm xuống tắm với bà Gần, nước trong vắt, mát lạnh. tắm xong cứ thế mặc quần áo ướt như vậy về nhà mới thay đồ khác được. Ai cũng vậy. Mà ở đó một thời gian, mình mới nhận ra chỉ có đàn bà mới tắm ở đấy, không bao giờ thấy đàn ông tắm ở đấy. Chắc vì thế mới có tên “Vực đàn bà”.
Nhà bà Gần có một cái chuồng heo ngay gần lối ra vào nhà nép sau cái bờ dậu cây dâm bụt( Bông bụp) , nơi ấy chính là nơi để ỉa của mấy đứa trẻ trong nhà nếu như không muốn đi ỉa ở tuốt phía sau vườn chổ gọi là hố xí thối phát sợ , dòi bò lúc nhúc, ruồi bay vè vè bu kín cả mặt. Đi ỉa lúc bấy giờ với mình là cái thú, leo lên cái bờ tường chuồng lợn, tay bám vào cái song gỗ, tụt quần, chổng mông là phọt. Mấy con lợn ở dưới há mõm đớp bẹp bẹp, mà lúc ấy làm quái gì có giấy mà chùi, hôm nào sang thì kiếm được tờ báo vò nhàu nhĩ, còn không thì lấy xé lá chuối khô ra chùi , ném xuống cái gì lợn ăn cái ấy. Còn con em mình được mẹ mang bô cho ngồi ỉa, mỗi lần nó ỉa là lũ trẻ con hàng xóm bu xung quanh hàng rào xem trộm, chúng xì xầm bảo nhau “ Ơ hay! Nó ia vao cài nôi!” ( Ơ hay! Nó ỉa vào cái nồi) dân vùng ấy nói cái giọng giống như mất dấu vậy.
Dân vùng ấy có một đặc điểm là ai cũng bị đau mắt hột và ỉa chảy. Ăn cũng gánh nước ở cái vực ấy, tắm giặt cũng ở cái vực ấy, có lẽ vì thế mà họ bệnh chăng ?
Mẹ mình cải thiện bữa ăn cho chúng mình bằng cách đi về Hà nội, lấy cái tem mua đậu phụ rồi đem đậu phụ về đó đổi lấy gà cho bọn mình ăn, nghĩ cũng lạ, cứ một cân đậu phụ mẹ mình đổi được hai con gà to đùng, mẹ mình kho mặn hoặc làm ruốc cho bọn mình ăn dè cả tháng. Mà nông dân ở đấy họ coi đậu phụ như một món cao lương mĩ vị ấy nhớ. Mình còn nhớ mẹ mình biếu cô Gần 2 vắt mì sợi (của Trung quốc viện trợ hôi rình) , cô ấy đi hái một rổ rau to đùng , nấu mì sợi chung với rau một nồi to đùng vật vã rồi mời cả mấy người hàng xóm sang cùng thưởng thức, mình đứng ở đầu hè nhìn vào thấy mọi người chan húp roạt roạt gật gù thưởng thức. Chỉ thích nhất lúc ấy là mẹ mình hay lấy khoai lang khô độn gạo nấu cho tụi mình ăn. Mình đâu có biết là khổ quá nên không đủ gạo phải độn khoai lang vào. Mỗi lần đến kỳ mua nhu yếu phẩm là mẹ tớ lại đạp cái xe đạp con tí cũ kỹ về đến Hà nội để mua bằng mấy caí tem con con, rồi chở lủ khủ cũng bằng cái xe ấy lên nơi sơ tán. Bây giờ nghĩ vẫn còn thương mẹ, mỗi lần về mẹ lại giao tớ cuốn sổ tem phiếu, hộ khẩu, bảo tớ rằng “ mẹ có làm sao thì con nhớ dắt em về nhà ông ngoại, đừng làm mất mấy cái sổ này nhé, mất là chết đói con ạ” Còn bé -mới mười tuổi đầu- tớ đã biết dắt mấy cuốn sổ vào cái ruột tượng mẹ làm cho đeo quanh người kể cả lúc ngủ. Chiến tranh mà!
Đến ngày bom bỏ ở chợ Truông ( hay Chuông) chết bao nhiêu người, thì cơ quan mẹ mình lại kéo hết mọi người đi sơ tán chỗ khác, ngay hôm ấy con em tớ bị ỉa chảy suýt chết, mẹ tớ phải đem nó cấp cứu ở bệnh viện gì ấy, bác sĩ cũng sơ tán gần hết, bệnh viện chỉ còn một mình em tớ là bệnh nhân với một bác sĩ hay y sĩ ( tớ đã quên mât). Đêm , cô Gần lấy cái xe đạp của mẹ tớ đem cháo vào cho mẹ và em, cô ấy không biết đi xe đạp rành thế mà tớ cũng dám theo cô ấy chở đi thăm mẹ. Đi trên đường đê, cô Gần loạng choạng xuýt té bao nhiêu lần ( Cả 10 cây số chứ ít gì) khi đến gần bệnh viện, cô ấy đâm ngay vào đít một bác đi bộ trên đê, và cô ấy cố phân trần với bác kia “Trong cái tràng hợp này thì em phải đâm vào đít bác thôi ạ!” Bác kia cũng buồn cười không kém “ Cái tràng hợp này đê rộng thế sao cô không đâm xuống đê mà đâm tôi?” Hóa ra là cô Gần không biết tránh chỉ biết chạy thẳng! Mà cô ấy cũng chẳng biết dùng phanh (Thắng)
Còn em tớ ngày hôm sau thì nó khỏi, mẹ con tớ dắt díu nhau lên Lập thạch –Vĩnh phú . Sau này tớ hay gọi con em tớ là Buratinô Ỉa chảy cũng vì cái bụng yếu của nó thế đấy.
(Còn tiếp Vĩnh phú ….)
Thế là thế nào??????????
Đến Km15 + 366 đường Láng Hoà Lạc (thuộc địa phận xã Yên Sơn, huyện Quốc Oai), xe do bị cáo Thưởng điều khiển đụng vào xe gắn máy của 2 cha con đang chở nhau đi phía trước. Đầu xe ô tô va vào đuôi xe máy khiến hai người ngồi trên xe bắn về phía trước làm anh Phùng Văn Hải chết ngay tại chỗ. Người con của anh Hải sau đó cũng chết trên đường đi cấp cứu.
Sau khi gây tai nạn, bị cáo Thưởng đã trả tay lái cho lái xe Toản và vòng ra ghế phía sau ngồi, nói với nhân viên lái xe “Đi về cơ quan” và bỏ mặc nạn nhân tại hiện trường. Về đến cơ quan, bị cáo Thưởng xúi lái xe và những người ngồi trên xe rằng “Không được khai người gây tai nạn là Chu Văn Thưởng”.
Căn cứ vào các lời khai của những người ngồi trên xe đã được sếp “mớm cung”, cuối tháng 8/2008, Công an huyện Quốc Oai khởi tố bị can Đặng Văn Toản vì phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Đến lúc này, lái xe mới phải nói ra sự thật.
Ngày 22/8/2008, VKS huyện Quốc Oai chuyển hồ sơ vụ án đến cơ quan điều tra TP Hà Nội. Tại đây, Thưởng mới chịu khai nhận những hành vi vi phạm của mình.
Hội đồng xét xử nhận định vụ tai nạn xảy ra cũng có phần lỗi của nạn nhân đã rẽ trái nơi đường cấm không được rẽ, người điều khiển xe máy không có bằng lái xe. Về phía nhân thân bị cáo, Thưởng phạm tội lần đầu, bản thân có nhiều thành tích (được tặng huân, huy chương trong quá trình công tác)… vì vậy hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, cho bị cáo được hưởng án treo.
Trước đó ngày 17/7/2009, khi bế mạc cuộc họp HĐND TP Hà Nội, thường trực HĐND TP Hà Nội đã thông báo tước quyền đại biểu HĐND của ông Chu Văn Thưởng vì đã vi phạm pháp luật hình sự
Và đây :
Ca sĩ Trí Hải chết khi đang thụ án tù
Dù được gia đình xin phép tại ngoại để nhập viện, nam ca sĩ của "Mặc kệ người ta nói" vẫn không chống chọi được căn bệnh phổi. Trí Hải qua đời vào nửa đêm 20/10, khi mới 23 tuổi, trong thời gian ngồi tù vì gây tai nạn chết người.
http://www.vnexpress.net/GL/Phap-luat/2008/09/3BA06625/
Lễ tang được tổ chức tại nhà riêng của Trí Hải, ở đường Đặng Văn Bi, quận Thủ Đức (TP HCM). Sáng 24/10, sau khi làm lễ ở nhà thờ, thi thể của nam ca sĩ được đưa về chôn ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa.
Gia đình của Trí Hải kể lại, cán bộ trại giam, nơi Trí Hải chịu án 4 năm tù vì tội lái xe đâm chết người, báo cho họ biết về tình trạng sức khỏe kém của anh. Lập tức được đưa đi chữa trị, nhưng anh không qua khỏi sau 10 ngày nhập viện.
http://www.vnexpress.net/GL/Van-hoa/2009/10/3BA14CE2/
Giết hai người treo 36 tháng, giết một người hơn 48 tháng tù giam và bỏ mạng trong tù rồi.Còn gì bất công nữa thì mời bà con cứ còm, tha hồ còm, tui buồn thúi ruột!
Thứ Ba, 20 tháng 10, 2009
Làm kim chi, còn quậy nữa, thiệt tình.....khùng....
Rùi hai anh em Wunh già mệ Đốp làm kim chi mà còn tám tùm lum.....Wynh già nhìn em gái làm xong sợ hết dzía, cứ lải nhải cái dàn thiên lý nhà Wynh hổng bao giờ làm thía!
Thứ Hai, 19 tháng 10, 2009
Lại chuyện chó thật
Có một lần đang đi rất chậm, tôi thấy con chó con chạy ra gần giữa đường phía bên trái, tôi bắt tài xế tấp lề , định chạy ra ôm con chó con vào vì thấy nó lính quýnh chạy ra chạy vào rất nguy hiểm nếu xe ngược chiều đi lại, vừa mở cửa xe, dợm bước thì thấy cái xe máy cày-công nông rú ga lao qua ầm ầm, mà lại đi trái đường nữa, tim tôi thót lại, chạy ra cũng không kịp, nghe một tiếng póp, con chó nhỏ bị xe cán bẹp, không biết làm sao cả, tự nhiên tôi khóc hù hụ, lấy cái khăn ở trên xe ra quấn xác con chó lại, tay tui run bần bật, nước mắt dàn dụa, mà trên xe tôi là con Tutu đang ngồi chờ tôi lên, lóng ngóng mãi mới mượn được cái cuốc của một nhà bên đường, tôi ôm cái khăn bọc chú chó nhỏ , đào lỗ chôn xuống ruộng. Hai ba người gần đó ra nhìn tôi giống như là nhìn khỉ sở thú...tôi cũng chẳng buồn nói gì.
Lên xe, lấy chai nước rửa tay sạch bùn đất, ngồi ôm cu Tutu vào lòng, thấy sao mà hụt hẫng, tự trách móc mình sao mà chậm chạp, buồn kinh khủng, cái tiếng động ấy ám ảnh tôi tới giờ, mỗi lần cho lũ cún ra sân là phải ngồi tại chỗ trông tụi nó, nghe xe nhà , hay xe nhỏ em là hét tụi nhỏ vào nhà khóa cửa lại mới yên lòng. Lắm lúc nghe tụi nhỏ óe lên là hớt hải chạy đi coi xem tụi nhỏ làm sao, dù rằng đã cất hết tụi nhỏ trong phòng cẩn thận.
Nhớ năm nào, con gà mái trong đàn gà tui nuôi bị xe nhỏ em cán mà tui ôm xác con gà khóc cả tiếng. Nghĩ thì cũng thấy kỳ cục, nhưng bản tính thế từ hồi còn bé tí, biết làm sao. Hôm nay đọc bài chó chết bên nhà Lão tà, chả liên quan gì mình cả , mà sao thấy buồn, rùi thấy giận cái lão Tà ấy, nó Tà quá đi mất. Nó cư bảo con chó chỉ là con chó, nhưng nó là sinh vật sống chớ bộ, định cãi nhau với nó, nhưng lại thấy mình dzô dziên, nên nín, về nhà mình mình chửi lén nó, cho đỡ tức tức trong họng!
Gửi người viết, người duyệt bài báo coi người là "tài sản sống"
"Chị Lê Thị Thanh Hà, chủ nhân của khu du lịch này là một trong những người mê sưu tầm hiện vật liên quan đến văn hoá Tây Nguyên. Trong ngôi nhà dài Ê Đê dài nhất Tây Nguyên bên bờ thác, ngoài những hiện vật quý giá trong bộ sưu tập của mình, chị Hà còn có một “tài sản sống” có một không hai, đó là đôi vợ chồng nghệ nhân Y Gông Bdăp và H’Uinh Byă.
Chị Hà kể: “Trong một lần đi lang thang sưu tầm hiện vật ở buôn Khít huyện Cư Kuin, tôi tình cờ gặp được ông bà, nghe được câu chuyện tình lãng mạn của họ và tôi mời họ về đây”. Năm nay, đôi vợ chồng này đã ngoài 80, khắng khít bên nhau ngót nghét hơn nửa thế kỷ không một ngày rời xa nhau. Đó là đôi vợ chồng người Ê Đê duy nhất ở Tây Nguyên cùng được tặng danh hiệu nghệ nhân dân gian."
Vốn dĩ là kẻ phóng túng thích đi hoang đàng chi địa khắp nơi, tôi đọc cái bài Chuyện tình Serepok để biết thêm nơi mà tôi có thể mò đến, đoạn đầu còn tàm tạm với văn tả cảnh ( chưa chắc viết hay hơn tui dù tui mới có đại học chữ to) đến đoạn tôi copy mà đem về dán đây thì thật tình, tui muốn chửi thề, đọc một lần loáng thoáng thì bực, đọc lần hai thì bắt đầu giận, và đọc lại thêm lần nữa thì thật tình tui muốn nhét cái phụ khoa vào mồm ông thật.
Tôi hỏi ông: ai dạy cho ông cái ý thức chiếm hữu nô lệ mà thế giới đã xóa sổ cái ý thức ấy hơn trăm năm nay? Chỉ từ cái ý thức ấy ông mới có thể đặt bút mà viết rằng :Ngoài những hiện vật quý giá trong bộ sưu tập của mình, chị Hà còn có một “tài sản sống” có một không hai, đó là đôi vợ chồng nghệ nhân Y Gông Bdăp và H’Uinh Byă.
Ông nghĩ hai con người thuộc về tài sản của một ai đó , ngang ngửa như như những hiện vật, hiện kim, được bày biện để khoe mẽ - hay con chó con mèo thuộc chủ nhân nào đó?????? Một cái lối phóng tác nhân cách hóa ngược từ con người thành đồ vật này có lẽ là được giáo dục bởi một nền giáo dục hoành văn tráng vô đạo đức lai căng "đâu đó" mà người ta vẫn thấy nhan nhản trên các kệ sách chính trị của quầy sách.
Thật đáng buồn vì có loại người coi người ngang đồ vật và có thể chiếm hữu như chiếm hữu những đồ vật vô tri vô giác.....
Gọi cho tòa báo của mấy người thì mấy người ngụy biện rằng đã đưa cụm từ đó vào ngoặc kép... chả lẽ cái ngoặc kép ấy có thể lấp liếm được cái dốt, cái ngu, cái ý thức mất dạy và khốn nạn ấy à?
Mấy người đã không biết nhận sai mà sửa lại ngụy biện loanh quanh như thế thì có khác nào cái phụ khoa của một cô gái đứng đường .... thôi tui chả muốn nói nữa, bẩn mồm, thà để chửi đù mẹ đéo bà mà vẫn còn sạch chán vạn.....
Kết luận của Thủ tướng về thực hiện quyết định 97 Ngày đăng: 5 giờ trước
Ngày 14 tháng 10 năm 2009, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 309/TB-VPCP về Kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp về việc triển khai thực hiện Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin đăng tải nguyên văn Thông báo này.
Ngày 24 tháng 9 năm 2009, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì cuộc họp để nghe báo cáo về việc triển khai thực hiện Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ. Tham dự họp có đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và đại diện lãnh đạo: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Văn phòng Chính phủ.
Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ báo cáo về tình hình triển khai thực hiện Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg, ý kiến của các đại biểu dự họp và phát biểu của đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận như sau:
1. Sau khi Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2009 về việc ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, dư luận chung là hoan nghênh việc ban hành Quyết định này, nhưng cũng có một số ý kiến cho là Quyết định ban hành chậm và không tán thành, đề nghị hoãn thi hành Quyết định này vì không đúng pháp luật. Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp lắng nghe và yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ nghiên cứu, rà soát kỹ lại tính hợp hiến, hợp pháp và trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg.
Trên cơ sở thảo luận thống nhất với Bộ Khoa học và Công nghệ, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Trung ương Đảng và sau khi báo cáo, được sự đồng ý của Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ tư pháp đã ký văn bản khẳng định việc ban hành Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là đúng pháp luật.
2. Việc ban hành Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ là cần thiết, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và đã có hiệu lực thi hành. Các Bộ, ngành, địa phương liên quan khẩn trương tổ chức thực hiện nghiêm Quyết định này.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương xây dựng, ban hành Thông tư hướng dẫn điều kiện và thủ tục đăng ký hoạt động đối với các tổ chức khoa học và công nghệ, trong đó có tổ chức khoa học và công nghệ do cá nhân thành lập, theo đúng Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg và các văn bản pháp luật có liên quan.
Cần lưu ý việc tổ chức phổ biến, giới thiệu rộng rãi và chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc sau khi ban hành Thông tư hướng dẫn này.
4. Giao Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội chủ trì, cùng Bộ Khoa học và Công nghệ có hình thức xử lý hợp lí, đúng quy định của Đảng và Nhà nước đối với việc tự giải thể của Viện nghiên cứu phát triển (IDS) và những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân thuộc Viện nghiên cứu phát triển (IDS).
- Tuần Việt Nam
http://www.tuanvietnam.net/2009-10-19-ket-luan-cua-thu-tuong-ve-thuc-hien-quyet-dinh-97
Đèo mẹ mấy thằng con trí thức kia! Thân lừa ưa nặng, bố bảo nịnh bố -không nịnh rồi còn làm ngang- bố mày xử lý cho chừa cái kiểu xóc hông của trí thức bọn mày nhá!
Ký tên
Bố!