Thứ Năm, 30 tháng 7, 2009

Tổ sư lũ bán nước!

35.000 lao động Trung Quốc đang ở Việt Nam
31/07/2009 09:32 (GMT +7)

Tại cuộc họp báo thông báo tình hình an ninh trật tự và xây dựng lực lượng CAND trong ngày 30-7, thiếu tướng Đặng Thái Giáp - cục trưởng Cục Công tác chính trị, Tổng cục Xây dựng lực lượng, Bộ Công an - cho biết hiện nay có khoảng 35.000 lao động Trung Quốc đang làm việc tại VN, tập trung ở một số địa bàn trọng điểm như TP.HCM, Tây nguyên, miền Trung.

Tình hình lao động Trung Quốc, nhất là số lao động phổ thông, tự phát nhập cảnh vào VN với nhiều lý do khác nhau như du lịch, thăm thân... rồi tìm cách gia hạn để cư trú trái phép, làm ăn lâu dài tại VN có xu hướng ngày càng gia tăng và khá phức tạp. Con số trên được thống kê từ các doanh nghiệp có lao động Trung Quốc làm việc, được quản lý theo dõi; còn trên thực tế vẫn có một số lao động chui chưa thể thống kê hết.

Lực lượng công an đã phát hiện một số doanh nghiệp Trung Quốc đưa người lao động vào cả các khu vực biên giới, vùng sâu, vùng dân tộc... tiềm ẩn những phức tạp về an ninh trật tự. Nhiều người không đủ tiêu chuẩn lao động, có người chỉ là lao động phổ thông nhưng vẫn được phía Trung Quốc cấp hộ chiếu công vụ; một số trường hợp nhập cảnh vào VN kết hôn với người Việt nhưng không đăng ký theo quy định.

http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/thuongnhat/399995/index.html

Hết chối nhá! Cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về dày mả tổ! Quân bán nước! Vậy mà chúng mày còn vênh váo bảo chúng tao nghe lời thế lực thù địch. Thằng nào mở đường rước quân tàu cộng vào đây? Chúng nó là dân thường hay quân đội cải trang????Thằng nào ký kết hợp đồng bán nước!???Dứt khoát không phải chúng tao- chỉ có bọn mày thôi!

Đọc tiếp ...

cuối cùng

  Nó cảm giác lạnh, lạnh từng cơn buốt trong xương buốt ra, hai hàm răng nó va vào nhau lộp cộp. Nó đang rơi xuống một vực xoáy đen ngòm , nó vùng vẫy cố bám lấy bất kỳ thứ gì mà tay nó chạm thấy, nhưng tất cả đều vuột ra khỏi tay nó.Nó rớt tõm xuống đám nước đen ngòm, nhầy nhụa, hôi thối. Ngạt thở quá, nó vùng lên hớp chút không khí còn sót lại, cổ họng nó đau thắt như sợi dây thòng lọng xiết vào, tim đập nhanh như trống giục, quằn quại cả thân hình trong cơn ngạt thở, nó ú ớ kêu lên: Ba ơi cứu con! Ba nó đang đứng ở vầng sáng trên miệng vực – không thấy rõ mặt ba , nhưng nó biết chỉ còn có ba nó là cứu cánh cuối cùng của đời nó. Tiếng hét của nó ngắt quãng vì dòng nước đen ngòm cứ trôi vào họng, nó nuốt ừng ực, kinh khủng, ghê tởm.Nó không thoát được khỏi đám lầy đó, đám lầy nuốt lấy nó từng chút một, từng chút một. Nó đối diện với tử thần, chỉ còn vài chục giây nữa là xong, nước mắt nó chảy xuống…còn nhiều điều nó chưa làm được trong đời, nó nuối tiếc….máu từng giọt nhỏ ra trên khóe mắt hòa với nước mắt chảy dài. Chúa cũng không ở bên, Phật cũng chẳng đoái hoài, Thần thánh đâu chỉ có một mình nó …nó cố nở một nụ cười cuối cùng….gương mặt chìm vào đám lầy còn lại vài bong bóng nổi lên…
Đọc tiếp ...

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2009

Vài cái hình chơi


Thư thái tí!
Đọc tiếp ...

Mưa rơi trên đường

Giọt mưa không tí tách
Giọt mưa đổ ào ào
Nhiêu lộc thơm mùi cống
Nước đen ngập ngang giò

Bọt tung kênh sủi đám
Người đi văng hêt bùn,
Xe nào ì ạch đẩy
Đó Sài gòn tui yêu....

Chiều nay đường sẽ kẹt
Lô cốt đổ rạp trời
Bùn nước cống phun lên
À ơi anh công chánh

Anh còn định thu phí
Ai đền tôi - ghẻ hòm?
Xe tôi thì chết máy
Anh ngồi đó tính thu

Thu cái mả mẹ anh
Nhồi cho mà đầy diều
Ăn bẩn từ cống rãnh
Còn muốn cướp tiền dân!
Đọc tiếp ...

Thứ Năm, 23 tháng 7, 2009

Blogger HLH bị bắt quả tang hành vi GÁI- GÁI ĐỒNG TÍNH NƠI CÔNG CỘNG!

Đêm qua vào lúc 20 giờ, đội đặc nhiệm ập vào quán DÊ Lộc Ấn ,đã bắt quả tang tại chỗ hành vi đồi bại của Blogger HolanHuong...

Blogger HLH đã phá hoại trinh tiết của Pé Nai bé bõng, Pé Nai mới có hơn ba chục cái xuân xanh với vài mảnh tình dắt túi. Hai người ấy có các hành vi trai gái xấu xa như trên hình đăng .Khi bị bắt quả tang hành vi Dê xồm của Blogger HLH, hắn đã có hành vi thóa mạ người chụp hình....
Theo điều tra của ĐĐN, pé Nai đã khai rằng HLH có hành vi xàm xỡ với Pé Nai, nhưng Pé Nai lại thấy phê phê như con tê tê...sướng....
Và kết thúc buổi thẩm vấn, sau khi cơ quan ĐTdùng hết gần chai vang đỏ tra tấn HLH , HLH đã được tha về, chân nam đá chân xiêu, thấy tự dưng đất hem có bằng phẳng, đèn đường nhìn một thành hai.
Về tới nhà HLH vô cùng hối hận về hành vi của mình , nên HLH ôm cái gối ôm ịt ịt ịt!

Nay bố cáo cho bàn dân thiên hạ bít mà coi chừng kẻ xấu!!! Mơi mốt đăng báo CAND cho oai phong lẫm lẫm!

Đọc tiếp ...

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2009

U ám

Trời tối sầm u ám, mưa mờ mịt giăng đầy. Sao thấy lòng buồn không chịu nổi. Thèm quánh nhau!
Sao ấy, tinh thần bạc nhược, ăn vào chỉ muốn ói ra cho nhẹ bụng. Không ăn thì đói, đói vàng mắt, hạ đường huyết lao đao. Nói chuyện với ai cũng chỉ dăm câu là : một câm, hai chửi.
Đến cái tuổi này mà nổi loạn như bọn bé con, thì bị thiên hạ chửi Già không nên nết!
Nhìn đâu cũng thấy mất dạy, đi đâu cũng thấy chướng tai gai mắt. Bịt mắt bịt tai hóa ra mình là bù nhìn coi dưa?
Cô đơn, lạc lõng ghê cả răng! Mà hổng dám kiu bạn bè off, gặp nhau nói gì đây? Bao nhiêu ước vọng bị nát banh chành như đống ly chén bể. Khóc thì làm đếch gì? Chỉ tổ nghẹt mũi, huyết áp cao. Những điều muốn nói, lại muốn phải làm, mà làm thì nó bắt bỏ bóp chả cần xét xử. Muốn rên rỉ, lại nhớ câu chuyện Quyền được rên mà xót xa...
Ngồi thiền mà lòng bồn chồn cứ cảm giác mình đang ngồi "Đất Lạ" mai mốt đất lạ bây giờ.
Đi đến đâu tiền đi theo đó, nếu không, thì cứ ngậm hột thị nghe con....hai ngày đóng hụi chết cho đầy tớ có ít lắm 25 chai thôi! Mình hô hào, chống đối tham thâm gì đó, đụng chuyện mình, dám không đút không? Cả một tháng chi phí công ty chứ ít ỏi gì. Cắn răng mà chịu, nếu không khách nó chửi nó cắt cơm thì cũng toi đời. Phẩm giá đâu? Đức hạnh đâu? Mẫu mực đâu? Mình là một con láo toét! Áp dụng trong sạch, nó giam cho giấy phép của khách một năm rồi nó trả lời từ chối! Tốn mười mấy chai cho anh huyện, vẫn câm tịt tìn tin...Ối thầy đề ơi! Tiền vẫn ăn mà sao không ỉa văn bản dùm.
Thật tình mà nói hum nay không muốn chửi bậy, chửi tục, nhưng mà đến đây thì chịu hết nổi rồi!
Ối dzời ơi! Mình mà qua sông rồi, thì thì thì.......đấm buồi vào sóng!
Sao mỉm cười mà mắt lại phủ mờ như sương????

Đọc tiếp ...

SGTT online!

http://www.sgtt.com.vn/Detail6.aspx?ColumnId=6&newsid=54526&fld=HTMG/2009/0721/54526

Ngày 22.07.2009 Giờ 08:16

Phiếm

Dàn cảnh cướp đất

“Hôm qua các trinh sát đã tóm gọn một băng chuyên dàn cảnh cướp đất của bà con nông dân. Theo nguồn tin riêng, các đối tượng bị bắt đều ở nhà lầu, đi xe hơi, ăn vận chải chuốt thơm tho, mở miệng ra là nói chuyên đất đai, toàn hàng chục, hàng trăm hécta, nói chuyện tiền bạc thì cả triệu Mỹ kim.

Trong thời gian qua, các trinh sát phát hiện nhóm đối tượng này thường xuyên lui tới mảnh đất bờ xôi ruộng mật của bà con, chúng chỉ trỏ bên đông qua bên tây, giơ tay san san, gạt gạt, rồi ghé tai nhau nói thầm bí hiểm, miệng cười đắc chí.

Hôm qua, sau khi nhận được tin báo, có nhiều lô biệt thự hạng kim cương, hạng bạch kim được rao bán nằm trên mảnh đất vốn là ruộng, ngay lập tức, bằng các biện pháp nghiệp vụ, các trinh sát áp sát hiện trường, bắt gọn cả băng, tịch thu tại chỗ nhiều hồ sơ giấy tờ bất động sản.

Theo lời khai ban đầu của các đối tượng, với thủ đoạn tinh vi và táo tợn, bọn chúng thường lân la vào những khu đồng ruộng đang canh tác tươi tốt để theo dõi, bàn thảo. Sau đó ít lâu bà con được thông báo, ruộng của mình nằm trong vùng quy hoạch dành cho dự án sân gôn, du lịch sinh thái. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, chúng biến thành những lô đất ở mang bán với giá tiền tỉ”.

- Ủa, cái này nghe quen quen, giống vụ dàn cảnh cướp tiền hồi hôm, ông có lộn không vậy?

- Sức mấy mà lộn. Là tui tưởng tượng vài năm tới có thể đọc được trên báo những thông tin dạng như vậy, biết đâu chừng.

Bảy càm ràm

Đọc tiếp ...

Thứ Hai, 20 tháng 7, 2009

Lang thang trên mạng đọc được câu chuyện này, tự nhiên tôi khóc!


 

QUYỀN ĐƯỢC RÊN

Lê Mai

 

 

 

Lời thưa của Vũ Ngọc Tiến: Trong chuyến lãng du phương Nam vừa rồi, mỗi lần về Sài Gòn, tôi thường cùng bạn bè trong văn giới tụ họp tại quán café Bông giấy (53 Trần Quốc Thảo), gần trụ sở Hội nhà văn thành phố (số nhà 81). Hễ nhắc chuyện quanh vụ cuốn Rồng Đá, nhiều người lại bông phèng trách yêu: “Sao Vũ Ngọc Tiến tham thế, đã có 2 truyện vừa còn thêm 5 truyện ngắn là 7, chỉ để cho Lê Mai  in chung có 6 truyện cười ngắn toen hoẻn(?!). Thật ra Lê Mai có gửi in 1 truyện khá dài, nhưng biên tập viên và anh Đà Linh đã thận trọng gác lại vì “ nhạy cảm”. Xem thế đủ biết quan điểm của anh Đà Linh là không thèm xếp các truyện chiến tranh của Vũ Ngọc Tiến vào “ô nhạy cảm” bằng truyện dưới đây của Lê Mai. Trân trọng giới thiệu cùng bạn viết, bạn đọc để hiểu thêm về cây bút đa năng này.

*

 *      *

Cuốn tiểu thuyết thứ 8 ông mới in xong được vài ngày đã nhận được nhiều lời chúc mừng của bạn bè thân hữu. Ông vui. Ông tự thưởng cho mình vài ngày nghỉ ngơi để xả hơi, trước khi bắt tay vào việc hoàn thiện tập thơ tự sự của đời. Ông pha ấm chè Thái thật nóng. Ngồi nhâm nhi một mình trong căn nhà tuyềnh toàng đồ đạc, ông lơ đãng nhìn ra ngoài trời. Mưa! Mưa quá! Ngâu mà…

Chuông điện thoại ré lên như động cỡn. Ông nhấc máy, nhỏ nhẹ:

- Alô. Ai đấy ạ! Tôi là Hoàng, xin nghe.

- Hoàng hả. Khỏe chứ! Kha lán 9 đây! Nhớ không! Cuốn “Lẽ đời” được đấy. Hồ hởi, phấn khởi nhé!...

Ông giật thót người, buông rơi ống nghe xuống nền nhà. Trong màn mưa dầy đặc ông bỗng thấy quản giáo Quang lừ lừ đi vào. Vẫn da mặt bì bì, xàm xạm; vẫn cái phẩy mạnh tay vào không gian; vẫn cái miệng hơn hớn nói trước mọi phạm nhân: “Hồ hởi, phấn khởi nhé!” Ông chăm chắm nhìn quản giáo Quang… Những ký ức của hơn bốn mươi năm trước tưởng mãi mãi bị chôn vùi bỗng ào ạt sống dậy trong ông… 

“Bao giờ đậy nắp áo quan

Mang theo xuống huyệt nỗi oan tày đình…”

Thơ ông từng viết thế.

Sau hội nghị Ấp Thôn, ông thấy mình rất hoang mang. Ở đâu, làm gì, ông cũng thấy như mình bị theo dõi, nghi ngờ. Nhiều người bạn vẫn ngày ngày bù khú, đàm đạo, trò chuyện với ông, giờ đây hình như họ tìm cách lảng tránh. Ông lơ mơ đoán: có chuyện rồi. Nhưng là chuyện gì thì ông chịu. Ông uể oải đạp xe đến nhà thi sĩ Phương – người nổi tiếng với biệt danh “Biết tuốt” để dò hỏi. Với vẻ mặt quan trọng của kẻ “biết tuốt” những bí mật quốc gia, thi sĩ Phương nhẩn nha nói: “Có nhiều người dò hỏi về cậu lắm, cậu phải liệu. Nghe nói, ở hội nghị Ấp Thôn người ta xếp cậu là Kẻ nổ phát súng đầu tiên của phái Nhân Văn đấy. Nổ phát súng đầu tiên, cậu hiểu không?” Nghe thế, ông trợn tròn mắt nói:

- Vô lý! Họ căn cứ vào đâu mà kết luận thế. Vô lý. Thậm vô lý!.

- Họ không vô lý đâu. Họ dựa vào đơn tố cáo của thằng Năng Lé. Nó dựng đứng chuyện cậu dịch bài “Văn nghệ và chính trị” của Lỗ Tấn là khơi mào cho một âm mưu. Tưng tửng hỏa mù thế thôi! Đấy, cái chết của anh em mình nằm ở chỗ ấy đấy. Văn chương mà, hiểu thế đếch nào chẳng được.

Lời tủng tẳng của thi sĩ Phương làm ông đã hoảng lại càng thêm hoảng…

Nhưng nỗi hoang mang không phải kéo lâu. Vào một ngày, ông cũng không rõ nắng mưa ra sao, chỉ biết vào khoảng gần trưa, có hai người đàn ông ăn mặc bình thường cùng người tổ trưởng dân phố bước vào nhà. Họ yêu cầu ông đứng dậy, rồi một người dõng dạc đọc lệnh khám nhà. Sau lệnh, tất cả giấy tờ, sách báo, bản thảo và cả những quyển sách Mác-Lê dày cộp cũng được xếp lên chiếc xích lô đỗ xịch trước cửa nhà. Ông cúi đầu lặng lẽ bước theo họ. Vẳng theo ông là những tiếng thút thít kìm nén của vợ con. Định dừng bước nói với vợ con vài lời, nhưng họng ông nghẹn ứ. Một cú huých nhẹ và một lời thúc giục nhỏ, nhưng đanh: Đi. Đi mau…

Trại 12 Hỏa Lò, vẫn thế - ông đưa mắt nhìn quanh. Trước thời gian, mọi vật đều biến đổi. Nhưng có lẽ, nhà tù là nơi biến đổi chậm hơn cả. Vẫn cái nhà xí mốc meo, hôi thối. Vẫn cái bể nước tầng tầng lớp lớp rêu phong. Vẫn cái không gian mờ mờ ẩm ẩm. Ở đây, hơn mười năm trước ông cùng các tù nhân trong trại đã tận mắt chứng kiến những giây phút bi tráng cuối cùng của người chiến sĩ cộng sản họ Hoàng trước khi ra pháp trường. Cũng ở đây, ông phải căng đầu suy nghĩ để chống lại những cuộc hỏi cung mưu mô và căng thẳng của bọn Phòng Nhì Pháp. Hơn mười năm trước, tang chứng vật chứng “phản lọan” của ông và các đồng chí đã rõ ràng nên kẻ thù mới đầy được ông lên Sơn La… Giờ  tang chứng, vật chứng có gì đâu cơ chứ! Hơn nữa, lòng ông sạch. Ông thanh thản chờ đợi cuộc hỏi cung để tự biện minh cho mình. Nhưng… Chờ mãi, chờ mãi vẫn chẳng thấy gì. Nửa tháng sau, ông được đưa lên núi rừng Yên Bái. Những thâm niên ở nhà tù Hỏa Lò, Sơn La ngày trước bỗng thc dậy trong ông một sự dò kiếm, tìm hiểu những điểm giống nhau, khác nhau giữa chúng với trại cải tạo Yên Bái của ta bây giờ. Núi thì cũng điệp trùng, rừng thì cũng âm u đến như Sơn La là cùng. Có lẽ nhà tù Đế Quốc hiện đại hơn, nhiều bê tông, nhiều kẽm gai sắt thép hơn và dữ dằn hơn – lính canh gác quanh mình đầy súng đạn, còn ở đây thì… chỉ những lán tre nứa, ọp ẹp; chỉ những sạp giường nứa gồ ghề và những hàng rào tre nứa sơ sài và những anh quản giáo hiền hiền ngô ngố. Nhưng chớ coi thường… Ở Sơn La còn có thể vượt ngục được nhưng ở đây thì… trốn ra ngoài rồi sống ở đâu, vợ con sẽ ra sao? Ông khẽ rùng mình. Ở lán trung tâm ông thoáng nhìn thấy văn sĩ Phùng, thi sĩ Thảo, họa sĩ Phạm. Mấy gã còn nháy mắt gật đầu trêu ông như ở ngoài đời. Ông vội quay mặt, lờ đi như không biết gì – kinh nghiệm tù dạy ông phải thế. Sao lại đông thế nhỉ? Họ mắc tội gì? Ông thèm được nói chuyện với họ quá mà không dám nhìn lâu.

 

Lán 9 – nơi ông ở có 16 phạm nhân. Mươi anh ăn cắp vặt, du thủ du thực; dăm anh đâm người, đánh vợ; ông và Apao (nghe nói, đâu như anh này chứa chấp thổ phỉ). Một dãy nhà tre nứa, tuềnh toàng, ọp ẹp nằm thườn thượt như nấm mồ hoang, cỏ chui qua vách nứa. Ông hòa nhập nhịp sống của trại rất nhanh. Sáng sáng, khi hồi kẻng lành lạnh rờn rợn ré lên, là ông đổ nước vào miệng, súc òng ọc vài cái rồi ra lĩnh củ khoai ăn sáng. Xong là ra lĩnh cuốc xẻng, quang gánh – công cụ cho một ngày lao động. Định mức là rất rõ ràng cụ thể, nhưng có hoàn thành hay không lại là việc không quan trọng. Quan trọng là ý thức: phân công việc gì cũng chấp hành không ý kiến, không thắc mắc. Quan trọng là: khi có mặt quản giáo phải cố làm việc hăng say, chờ lúc quản giáo vẫy tay gọi phải nhanh nhẹn chạy đến, đứng cách xa 3m cúi đầu, lắng nghe lời huấn thị, giáo dục của quản giáo: “Hồ hởi, phấn khởi nhé – Đào sâu suy nghĩ nhé!” Tất cả chỉ có thế thôi. Rồi buổi tối ngồi gật gà bình xét. Khổ, đói rồi cũng quen, nhưng nhớ nhà thì không thể. Chiều chiều, sau bữa cơm thấy Apao lánh riêng ra một chỗ, đăm đắm nhìn rừng núi thâm u là ông lại lặng lẽ rơi nước mắt. Apao nó đang nhớ nhà, nhớ rừng… Ngày ông bị bắt, đứa con út mới sinh được mấy ngày, mới chỉ kịp đặt tên. Vợ đã yếu giờ lại bị cho thôi việc. Tấm thân gày còm ấy giờ đây biết làm gì để nuôi bốn đứa con nhỏ dại. Tuần trước, nghe nói, họ cử cán bộ đến tận nhà vận động vợ con ông đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hoàn cảnh kinh tế khó khăn… Những lời nói đường mật… Những viễn cảnh ngọt ngào… Lòng ông nóng như lửa đốt. Ông muốn thét vào không gian dặn vợ: “Cố bám chặt lấy phố phường. Cống rãnh, đường phố sẽ giúp Em và các con vượt qua hoạn nạn.” Nhưng núi rừng trùng điệp thế, không gian mang mang thế làm sao ông dặn nổi vợ con! Ông đau đáu thấy mình có tội với vợ con. Bất lực, bí tắc, ông lê chân đến đứng trước mặt người quản giáo – người trạc tuổi con ông, chưa đọc thông viết thạo. Ông chắp tay, cúi đầu, giữ đúng khoảng cách 3 mét rồi nhỏ nhẹ thưa: “Thưa cán bộ, trường hợp tôi bao giờ thì được ra toà?”  Ra tòa! Phải! Ra tòa! Các phạm kinh tế hay hình sự ở lán ông ai cũng đã được ra tòa. Họ có án đàng hoàng. Họ biết rõ ngày đi – cũng biết rõ ngày về. Còn ông… Ông mong ước được ra tòa. Ra tòa – ông nghĩ: Mọi việc sẽ được phân định rõ ràng. Trắng ra Trắng. Đen ra Đen. Lúc ấy, dẫu có phải đi tù ông cũng không oan ức. Người quản giáo nhìn ông. Nhìn từ đầu xuống chân rồi khinh khỉnh nói:

- Ông là nhà văn có tiếng mà còn dốt thế! Tù rồi còn đòi ra tòa làm gì?

Ông lạnh người nhận ra cái tuyệt đúng, tuyệt gọn, tuyệt dễ hiểu của lời lẽ anh quản giáo, nhưng như thế thì mông lung quá, mịt mờ quá… Ông rụt rè thưa tiếp:

- Nếu không ra tòa, không có án tôi biết sao được tội gì? Hình phạt là bao nhiêu năm?

Nhìn ông, anh quản giáo cười hiền, tỏ ý thông cảm:

- Dốt thế, ở tù cũng đáng... Ông là đi học tập, đi cải tạo chứ có phải tù đâu mà hỏi án bao nhiêu năm. Đi học tập, đi cải tạo thì bao giờ học tập tốt, cải tạo tốt thì… ra trường. Tốt nghiệp ý mà! Muốn biết bao nhiêu năm thì phải tự hỏi mình chứ hỏi gì tôi. Thôi, hồ hởi, phấn khởi nhé!.

Ông ghìm tiếng thở dài ngao ngán, biết mình rơi vào tình trạng sống dở chết dở rồi, muốn thoát khỏi nó chỉ còn cách:

“… Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm hại

Khôn ngoan không dám làm người

Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi…”

Phải biết chấp nhận thực tại. Chấp nhận một cách hồn nhiên và phải luôn hồ hởi, phấn khởi. Apao đấy. Họa sĩ Kha đấy. Họ đi tù rất hồn nhiên, đâu có trĩu nặng như ông. Càng hồn nhiên, giác ngộ tốt, hồ hởi, phấn khởi, sẽ càng chóng… ra trường.

 

Mấy tháng sau, ông được giám thị gọi lên giao nhiệm vụ mới: làm y sinh – dùng lá lẩu quanh trại chữa bệnh cho phạm nhân của trại. Hồ sơ lý lịch cho họ biết, ông có tài vặt này từ khi ngồi tù thực dân ở Sơn La, có lẽ vậy. Tốt quá! Nhận nhiệm vụ mới ông rất vui. Vui vì nhiều lẽ. Từ đây ông được tạm chia tay với cuốc, với xẻng, với gánh phân… với những tối ngồi bình xét ngày lao động. Từ đây không có người giám sát, ông sẽ có thời gian tranh thủ hái thêm mớ rau rừng, vồ thêm con cóc, đập thêm con rắn cải thiện bữa ăn, bồi dưỡng cơ thể để còn có sức mà về với mẹ đĩ. Ông bồi hồi nhớ tới lần vô tình nhìn thấy con cua đang lổm ngổm bò dưới đáy ruộng lúa. Ông gạt vội đám đỉa lúc nhúc ngoe nguẩy trên mặt nước, ào xuống ruộng, vồ gọn mấy chú cua. Xé từng con ăn sống, mà chất ngọt chất bổ của con cua thấm đến đâu ông biết rõ đến đấy. Đúng là bổ hơn cả nhân sâm. Từ đây, ông sẽ có dịp la cà sang các lán chuyện trò, thỏa chí tò mò ham biết của nhà văn. Và nhất là việc trị bệnh cứu người còn giúp ông nuôi dưỡng ngọn lửa tính người mà giờ đây trong ông nó chỉ còn leo lét cháy… Nghe đồn, ở lán chân đồi còn gọi lán Đồi Ma có nhốt một phạm lạ. Phạm này chẳng biết mắc tội gì. Cũng chẳng biết có điên hay không. Chỉ biết từ ngày vào trại hắn chỉ nói, nói sang sảng, nói toàn đúng, nói tới mức giám thị trại phải nhốt riêng hắn ra một lán khuất nẻo. Hôm trên đường sang lán 4 chữa bệnh, ông ngó trước ngó sau không thấy ai liền tạt sang lán Đồi Ma. Đúng lời đồn, khi còn cách lán vài chục mét ông đã nghe tiếng nói sang sảng phát ra. Giọng nói có âm có sắc, tròn vành rõ chữ, khúc triết mạch lạc nhưng đã đuối. Ông ghé mắt nhòm qua vách lán. Trong không gian tử thần có một bộ xương người ngồi ngay ngắn trên mặt sạp nứa dài thườn thượt. Từ lỗ thủng sâu hoắm trên chiếc đầu lâu sang sảng phát ra tiếng nói rất hay và tuyệt đúng. Ông rùng mình, bỏ chạy. Hai ngày sau hắn chết. Ông ghìm tiếng thở dài, thương lắm số kiếp một sinh linh nhỏ bé. Con người có số phận không? Ông nhớ, sau lần vượt ngục Sơn La, tổ chức Đảng cho người tìm đến tận nhà giao cho ông một cái chức kha khá… Tiếp theo là những ngày hoạt động sôi nổi, tràn đầy hào khí. Những bài thơ, trang văn, lời kịch đậm đà lòng yêu nước diết da toát ra trong bản ngã của con người nhân hậu có sức hút công chúng lạ lùng. Ông hừng hực sống. Ông rạo rực sống. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, toàn Đảng toàn dân náo nức bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, ông háo hức vung ngọn bút náo động kịch trường. Ngày đêm ông say sưa làm việc, lúc viết kịch bản, viết báo, viết thơ…, khi làm đạo diễn chọn diễn viên, phân vai, chọn cảnh; lúc gặp người này, khi người khác gặp… náo nức tưng bừng… Thế mà bỗng nhiên, thoắt một cái thành thằng tù xa vợ, lìa con, bạn bè lảng tránh…

 

Ông ngậm ngùi chợt nhớ đến cái ngày ra tù… “Một ngày tù nghìn thu ở ngoài”. Ra tù, ở Yên Bái tiếng ấy reo vang, hừng hực như lửa phát nương nhưng khi về đến đô thành nó trở thành đốm lửa ma lạnh lẽo. Ở Yên Bái bạn tù lưu luyến tiễn đưa, về đến nhà không bạn bè thăm viếng. Thậm chí mấy ngày sau, ra phố vô tình gặp người bạn văn (người bạn hiểu rõ nỗi oan khuất của ông giờ đã có chức có quyền trong làng văn nghệ), người đó kéo sụp mũ che mặt lảng tránh… Cũng phải thôi, họ sợ liên lụy. Ông tự nhắc mình: giờ đây trong quan hệ mình phải thận trọng giữ gìn đừng để liên lụy đến bạn bè hàng xóm. Ngày ông đến đồn công an trình báo, người chiến sĩ công an trạc tuổi con ông (cái tuổi mà khi ông và đồng đội bừng bừng dũng khí tham gia cướp chính quyền thực dân – phong kiến, chúng còn đỏ hỏn) nghiêm khắc, ân cần giáo dục và nhắc nhở ông phải sống sao cho ra sống. Lòng ông nhức nhối, buốt đau. Giá trước đây thì… Nhưng giờ đây, sau những lời giáo huấn đó là hộ khẩu, tem gạo; là người vợ và những đứa con xanh xao, gầy còm, ngơ ngác sống, rụt rè sống, nhẫn nhục sống… Ông lểu thểu về nhà, lăn ra giường và nghĩ miên man. Phải kiếm việc để làm ngay – ông tự nhủ. Nhưng, làm gì? Văn sĩ Đoàn nói: “Vì không biết làm gì, tôi phải làm nhà văn.” Còn ông, đến nhà văn cũng không được làm thì làm gì? Làm gì?... Té ra, một ngày ở ngoài nghìn thu ở tù. Ông lò dò đến thùng gạo. Mở nắp thùng thấy chỉ còn vài lon gạo. Ông giật mình hiểu ra cái khảnh ăn của vợ con. Thảo nào, vợ con ông gầy gò, xanh xao thế! Phải tìm việc đi làm ngay – ông tự nhủ rồi đi luôn đến nhà văn sĩ Trần. Nghe nói, mình đi Yên Bái được ít lâu thì cậu ấy cũng bị nghỉ việc. Lăn lộn hè phố lâu rồi, chắc cậu ấy có nhiều mối tìm việc, lo gì ế! Ông căng mắt nhìn xiên vào lớp không gian mờ mờ ảo ảo, trống trải, lạnh lẽo như căn nhà mồ và giật mình, ngơ ngác khi nhận ra hình dạng người bạn nối khố. Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu! Đúng là: hết thời kỳ oanh đến thời kỳ liệt. Còn đâu văn sĩ Trần đầy vẻ tinh tướng. Ăn mặc thì phong lưu, đài các. Lời nói thì khúc triết, văn hoa. Đi đứng thì ung dung tự tại. Giờ đây, văn sĩ Trần lừng danh đang ngồi co ro như chú gà rù trên chiếc giường giẻ quạt cũ, đầu gối quá tai, nom rũ rượi, thê lương hơn con bù nhìn trên ruộng. Vừa nhìn thấy ông, văn sĩ Trần hơi ngửa mặt cười và nói luôn:

- Học tập xong rồi hả? Giác ngộ rồi, đến giáo huấn ta đấy phỏng?... Ngẫm kỹ thấy anh cũng giỏi. Giỏi lắm! Người đời phải gây tội mới được tù. Còn anh, chẳng phải nhọc xác gây gì cũng được tù. Thời Pháp đi tù thời Pháp. Thời ta đi tù thời ta. Thời nào cũng được tù. Dễ thường nghề tù cũng đến kịch bậc rồi chứ kém cỏi gì!

- Tưởng cậu hộ khẩu ngoài đường phố. Biết đâu lại “cấm cung” thế này! Yếu liễu đào tơ quá! Nghe nói, tớ đi Yên Bái được mấy tháng thì cậu cũng có quyết định cho thôi việc hả?

- Quyết định quyết đeo gì đâu. Sau mấy hôm kiểm điểm, đến cơ quan làm việc tự dưng thấy anh em nhạt nhẽo với mình quá. Cứ xà vào đâu thì chúng nó hình như lại lảng đi. Cũng chẳng thấy thủ trưởng phân công công việc… Được vài hôm như thế thì chán, thì nghỉ, chứ quyết định quyết đeo gì. Ông Trương, thằng Phùng, thằng Nguyễn cũng nghỉ việc cơ quan rồi. Thằng Phùng ra bờ hồ cắt tóc, gần cây đa ở đền Ngọc Sơn ấy. Ông Trương tối tối xách sọt đi các chợ, bới rác nhặt lá lẩu về nuôi lợn, nuôi người. Thằng Nguyễn đi đội than ở Vọng. Ông có biết thằng Văn không? Thằng ấy hóa ra số sướng ông ạ. Khi ở nhà, thì nhà cạnh hồ, tha hồ sát cá. Giờ lại được điều đến nông trường trông giữ mía cho Hợp tác xã ông ạ. Đúng là chuột sa chĩnh gạo. Phải tay ông thì, mía sẵn đấy ông cứ “tẩn” cho đã đời.

- Ông tìm được việc làm ổn định như chúng nó chưa?

- Ông lạ gì tôi. Tôi thì làm được cái đếch gì ngoài việc viết. Học từ tấm bé đến giờ. Cái kìm còn không biết cách cầm. Mó phải cuộn dây điện nằm trong tủ còn sợ giật. Giờ không được viết nữa thì ở nhà trông nhà, nấu cơm, cho vợ với cái mẹt thuốc lá lê la đầu đường xó chợ. Thương bà ấy, trước tôi cũng lò dò ra giúp thêm. Nào ngờ cứ dò ra lần nào là lần ấy mẹt thuốc bị bắt. Họ không bắt mình mà chỉ bắt mẹt thuốc mới đau. Sau bà ấy cấm chỉ, bắt tôi cấm cung ở nhà. Lúc nào buồn quá thì… “Mây ở đầu ô, mây lang thang”…

- Nghe nói, cậu Hoàn – bạn con chấy cắn đôi với cậu, dạo này lên to lắm. Đến nhờ nó một câu việc gì chẳng xong. Có việc làm nó mới ra con người ông ạ.

- Tớ đếch đến! Mình gặp nạn nó không đến, mình lại mò đến xin xỏ, nhờ vả nó thì còn ra đếch gì cái tình bạn. Mà có lẽ bạn mình tinh những loại hiểu biết, giỏi giang, vô tình gặp mình trên phố chúng đều biết cách kéo sụp mũ xuống che mặt, lảng tránh. Làm vậy đỡ khó xử ông ạ!

“ Mai sau có gặp lại nhau.

Xin đừng cúi mặt để đau lời chào.”

Nó không đánh hôi mình thế là tốt rồi.

- Nó thù ghét gì mình mà đánh hôi. Chẳng qua là do bị phân công mà phải viết thôi. Thông cảm với chúng nó – người mà.

- Ông ở xa nên không biết. Đúng là chúng nó chẳng có thâm thù gì với mình. Đúng là có đa bị phân công, nhưng cũng có đứa vì chút lợi lộc, quyền chức nhỏ nhoi mà a dua, xiểm nịnh. Có đứa té nước theo mưa để ra vẻ ta đây là oai, là quan trọng, là trung thành và cách mạng tới cùng… Lão Sơn đấy, khi bài Nam Chinh mới ra đời thì hết lời khen ngợi, tụng ca, giờ thì quay ngoắt 180 độ phê cái này, phán cái kia, đọc mà lợm giọng. Nhưng thôi, giờ cái gì đã qua rồi thì cho qua luôn, không giữ cho khỏi rặm bụng. Hỏi thật nhá: Hôm nay anh đến định nhờ tôi xin việc chứ gì? Phải thì khai ra!

- Phải! Nhưng tôi về đây. Ốc còn chẳng mang nổi mình ốc…

- Thế mà lại mang được cọc cho rêu đấy. Ông có thích đi đẩy xe bò không? Đẩy thôi. Phụ thôi. Không được cầm càng đâu. Cầm càng là phải giỏi lắm! Lớ ngớ nó tùng bê mẹ xe bò lên, người lơ lửng trên không trung như con nhái bén ấy. Tôi có quen anh tổ trưởng tổ vận chuyển Toàn Thắng. Chưa bại lần nào. Ở đấy họ đang cần tuyển một người đẩy xe kiêm bốc dỡ hàng. Lương công nhật đồng tư một ngày, không cao lắm nhưng cũng nhiều hơn tiền công đan thuê của mấy con vịt giời nhà ông. Bở đấy. Thích thì tôi xin cho. Áo quần đầu tóc lếch thếch thế này là tốt rồi nhưng… phải cái là da còn trắng quá, mịn quá.

- Bở đấy. Ông làm đi. Tôi đâu dám cướp “nắm cơm chim” của bạn.

- Tôi cũng muốn làm lắm nhưng họ không dám nhận. Không dám nhận ông hiểu không? Cái tình thế khốn nạn của tôi là thế đấy. Thà như ông đi tù rồi là xong. Thằng tù rồi thì làm gì mà chẳng được. Còn thằng tôi, thật sống dở chết dở…Việc đang làm thì tự nhiên nghỉ. Bài viết chẳng dám in… Chẳng có tai tiếng gì nên thiên hạ họ vẫn nghĩ mình cao sang lắm… Anh đây công tử không nhà. Cái áo đi mượn cái quần đi thuê… mà họ vẫn tưởng là ông nọ bà kia. Tôi đã xin tay tổ trưởng rồi, hắn tưởng tôi nói lỡm nên lại nói dỗi, càng làm mình thêm đau. Thế có chết cha mình không. Thôi, không dài dòng, ông theo tôi đến gặp nó ngay, không nó nhận người khác thì khốn…

 

Ông từ từ mở mắt, nhấp nhẹ một hớp chè, tự thưởng cho cái trí nhớ của mình. Mấy chục năm ba chìm bảy nổi ngỡ tưởng tất cả đã trôi vào quên lãng, nào ngờ… Ông nhớ rõ từng chi tiết, từng từ ngữ, từng biến thái sắc mặt của văn sĩ Trần trong cuộc trò chuyện đó. Giờ đây bạn ông đã là người thiên cổ. Hết rồi, đời của một con người tài hoa bạc phận nhưng những gì bạn ông làm được lúc văn chui – rượu lậu vẫn còn cả đấy… Những trang văn, những bài thơ bạn âm thầm viết, giấu vợ, giấu con, giấu bè giấu bạn… mà sao thấm đẫm tình người, mà sao run rẩy cõi không gian. Giá mà ông Trần còn sống, cùng ông đi dự lễ phát giải thưởng văn chương cho ông Sâm (trong lũ chúng ta) thì ông Trần sẽ nói gì, khi thấy cảnh vợ con ông Sâm xốc nách, đặt ông lên ghế ngồi. Còn ông Sâm chỉ lặng lẽ ngồi, mặc cho mấy giọt cặn lệ khó nhọc rỉ ra nơi khóe mắt. Một vinh quang cay đắng. Một hạnh phúc muộn mằn. Ai đó nói nhỉ:

Hạnh phúc đến sao người thân nước mắt rưng rưng

Hạnh phúc muộn, mong manh hơn sợi khói

Hạnh phúc đến, anh lặng không cười nói             

Anh biết mình, không còn được như xưa…

                Thương những giọt nước mắt rơi

                Nuối tiếc thời hoa đỏ

                Lo sợ ngày mai…

Trên đỉnh cao vời vợi

Gió rít mịt mùng

Đỉnh chon von, chơi vơi…

Mà anh tóc bạc, da mồi…

Hạnh phúc muộn như trái cây chín ép

Chỉ nhợt nhờ, ưng ửng đến quái thai

Chỉ sợ xấu trai!

Không cần đẹp lão!

Phải lắm! Đẹp lão còn nhử được ai! Mà có nhử được cũng bất lực, phí cả cái đẹp đi. Nhưng nói thế liệu có thái quá không? Vì méo mó có vẫn hơn không. Hơn nữa, chí ít đó cũng là sự ghi nhận: lũ các ông đâu phải tồi. Suối giải oan cũng bớt đi được vài chục giọt… Ông tủm tỉm cười khi nghĩ tới cảnh ông hân hoan từ nhà văn sĩ Trần về báo cho vợ con biết tin: ông đã trúng tuyển và được bổ nhiệm làm thằng đẩy xe bò kiêm bốc vác trong tổ vận chuyển Toàn Thắng – không bại. Nghĩ vợ con cũng mừng rú như ông, nào ngờ… Họ ôm mặt khóc thút thít. Những tiếng nấc nức nở, xót thương làm ông hoảng sợ. Thời gian sau, khi công việc đi vào ổn định, cả nhà đã quen cảnh sáng sáng ông úp chiếc nón rách lên đầu, tay xách liễn cơm lầm lũi bước ra khỏi nhà, vợ ông mới nói: hôm đó họ khóc vì họ thương ông quá. Một nguời chữ nghĩa đầy mình, thông minh sáng láng, tiếng Tây tiếng Tầu vanh vách…, phải đi tù còn có thể hiểu được, chứ làm ông xe bò kéo thì họ chưa bao giờ tưởng tượng được. Cái bà, trông thế mà lạc hậu. Còn vương vít tư tưởng tiểu tư sản (Tạch – Tạch – Sè). Thời đại mới: lao động là vinh quang. Là nhà văn, là nghệ sĩ, là giáo viên hay anh hót cứt đều vinh quang tuốt. Ăn trộm ăn cướp của ai mà xấu hổ. Hơn nữa, lao động sinh niềm vui. Tự giác ngộ mình thế thôi, nhưng thực lòng những ngày đầu đi đẩy xe bò ông thấy ngượng ngùng, xấu hổ… Vẫn chỉ dám cắm mặt xuống đường và rất lo gặp người quen. Lòng tự nhủ phải dấu mình, để lòi đuôi ra thì rách việc lắm…

“… Li ti đi dưới gầm trời

Vẫn lo nhiều lúc mây rơi trúng đầu…”

Rồi cũng dần dần quen… Những ngày đi đẩy xe bò, cắm mặt xuống đất ông thấy lòng thanh thản, đầu óc thư thái, ăn ngon ngủ say. Vĩnh biệt nhé danh hão! Vĩnh biệt nhé họp hành, kiểm điểm! Rồi ông cũng tự nhiễm những “thói quen nghề nghiệp”: nắng thì úp mê nón rách lên đầu, nóng thì quần đùi - cởi trần, khát thì chổng mông bên vòi nước công cộng, mưa thì phủ chiếc áo tơi… Những thói quen rất tốt cho cuộc sống đầy cảnh giác. Giờ thì ông đã an tâm sống. Trong con mắt của đồng nghiệp, cái anh Hoàng hiền đến mực cậy mồm mới nói vài câu, chỉ được cái hùng hục làm, đích thực là người của họ, cũng bố cu mẹ đĩ, cũng thành phần cốt cán, không có gì phải cảnh giác. Cuộc sống và sự nghiệp của ông sẽ êm ả trôi nếu không có một lần… Quái lạ, cái đất nước mình, ở đâu, môi trường nào cũng có gái đẹp mới chết chứ. Cái cô Thúy đã đi đẩy xe bò mà người ngợm cứ ròn tan, tươi tắn. Lại còn cái mắt, cái mồm mới diệt giới làm sao. Lại còn cứ tìm cớ trêu chọc, va chạm. Những va chạm, tình tứ làm ông nhớ về những ngày tháng huy hoàng… Những cô đào, nghệ sĩ lừng danh thiên hạ cũng va thế, cũng chạm thế, cũng liếc thế… Mình là thằng đẩy xe bò, ngơ ngơ, dôn dốt – ông luôn tự nhắc mình và cố lờ như không hiểu những lời trêu chọc:

Ai sinh ra cái xe bò

Để chàng quân tử kéo gò lưng tôm

Dựa lưng vào chiếc xe, ông lấy nón úp lên mặt, vờ như nằm khểnh mặc mẹ đời. Lại vút lên tình tứ:

Làm trai cho đáng nên trai

Ăn cơm với vợ còn nài vét niêu

Rồi những cái lay, tiếng giục, tiếng cười rạo rực… Nó nhìn cậu, nó cười kìa… Không dằn nổi mình, ông buột miệng:

Gái này là gái cũng liều

Thắt lưng thật chặt giằng niêu với chồng

Tiếng vỗ tay, cười nói rầm rầm làm ông hứng khởi. Chợt nhận thấy ánh mắt nghi ngờ, cảnh giác của ông tổ trưởng. Ông giật mình ân hận. Rồi đến một trưa nắng. Nắng mềm đường nhựa. Nắng cháy gió. Có hai người Pháp đỏ như tôm luộc nói với nhau những lời lo lắng vì lạc đường. Ông bèn chỉ cho họ biết đường về khách sạn Metropol… Việc chỉ vậy thôi nào ngờ… Chỉ ít phút sau ông đã phát hiện thấy tay tổ trưởng bí mật vào đồn công an trình báo những điều nghi vấn. Ông ghìm tiếng thở dài, số kiếp ông sao khổ vậy, người ta làm người lao động sao dễ thế, mà ông… Ông nhớ tới ông Xuân ở bãi Phúc Tân, trốn cải cách ở quê lên bãi sinh sống. Cũng trắng trẻo thư sinh như ông, cũng tiếng Tây tiếng Tàu làu làu mà cũng xe bò ba gác như ông, tối tối còn xách cái đèn dầu đi học bình dân học vụ. Hai năm ròng học không xong cái vỡ lòng nên gia đình được xếp thành phần dân nghèo thành thị. Giờ đây ông ấy đã là người lao động thực thụ rồi, không còn ai eo xèo, xoi mói. Thế mà ông đoảng quá… Binh tình này phải nghỉ việc thôi. Gia đình đang đi vào thế ổn định. Các con đang thì lớn, ăn như tằm ăn rỗi. Da vợ, má con đã có chút sắc hồng. Chẳng ai còn phải khảnh ăn như trước…

 

Ông lại nhấp ngụm chè nhỏ và bất chợt lè lưỡi nhớ tới từng ngày đi đào hầm thuê sau đó. Các cụ nói cấm có sai: Nhất thổ nhì mộc.Ông không thể quên những lần vung chiếc búa chim xuống nền đá ong khô khốc. Hai cánh tay bật chùn lại. Một luồng điện giật nẩy toàn thân. Ông khạc mạnh vào lòng bàn tay một bãi đờm vấy máu. Lúc đó ông hoảng hồn, nhưng rồi lại có cách tự trấn an mình. Hồi ở nhà tù Sơn La, có lúc ông đã thổ ra từng bát máu, rồi cũng có sao đâu. Hơn nữa, bát cơm nào của người lao động chẳng đổi bằng mồ hôi, xương máu. Ông lại nghiến răng vung cuốc. Công việc đang thuận lợi, thu nhập cũng rảnh rang thì… Sư cha cái anh Giôn Xơn, nó lại tuyên bố: Ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Nghĩa là, nó ngừng ném bom ở khoảng không gian mà ông sống và đào hầm để kiếm sống. Thế là… ông lại thất nghiệp. Nhưng ơn giời, phúc tổ, các cụ lại nói đúng: Trời sinh voi thì sinh cỏ. Trong lúc chưa biết nên buồn hay vui, khi mà anh Giôn Xơn giở chứng thì ông lại gặp vận may: ông được anh buôn chó tuyển luôn làm phụ tá. Thế là từ đấy, sáng sáng với chiếc xe đạp tòng tọc, với 2 chiếc sọt sắt buộc chắc chắn 2 bên gác ba ga, với cái thòng lọng cắm sau yên, ông thong thả đạp xe sau anh lái chó, đi khắp đường làng ngõ xóm. Đường xá ngoại thành và các vùng quê lân cận nhỏ lắm, xấu lắm. Nắng thì xóc nẩy người. Mưa thì lầy ngập ngụa. Nhưng gió. Nhưng nắng. Nhưng bát ngát cánh đồng. Bỗng thi hứng dạt dào trong ông. Ông dùng ý chí cố gạt nó ra khỏi đầu. Văn chương là thứ cực kỳ nguy hiểm. Vinh quang chẳng đáng là bao mà nhục nhã ê chề thì vô tận. Ngày ra tù ông đã ngầm tự hứa sẽ cai nó, sẽ cạch nó đến già. Nhưng gió, nhưng nắng, nhưng hương đồng gió nội, nhưng những thôn nữ dịu dàng, e ấp như lúa, như ngô… khiến thi hứng giờ đây cuồn cuộn trào dâng. Ông chặc lưỡi . Sao mình lại không viết? Chẳng lẽ những cái mình viết trước đây đều vớ vẩn sao? Cứ viết. Giờ chưa hiểu thì sau sẽ hiểu. Lưu Bang chẳng từng đã đái vào mũ Lục Sinh sao? Sau lại phải dắt cả hoàng tộc và bá quan đi tế trên dòng sông nước Lỗ để mua lòng sĩ phu trong thiên hạ? Lịch sử nhiều nước đã chứng minh chỉ có hôn quân, bạo chúa mới căm thù trí thức, căm thù sách vở. Phải viết. Phải viết. Ông lẩm nhẩm sắp xếp lại ý tứ trong đầu:

“Anh thích chồi thật xanh

Và hoàng hôn giáng đỏ

Con đường làng nho nhỏ

Hun hút vào chân mây…

(Ờ… ờ…) Cánh đồng quê bối rối

Con đường quê ngập ngừng

Hương quê thơm phập phồng

Em dịu dàng, e ấp…

Bỗng, từ một mái nhà lúp xúp ven đường vẳng ra tiếng đàn bà gọi giật giọng: Chó ơi, Chó ơi… i! Ông ngớ người nhận ra họ gọi mình. Chút tủi thân, tủi phận chợt bật lên làm mắt ông nhòe đi…

… Ông bồi hồi nhớ về một ngày ở thời buôn chó… Ngày ấy, ú ớ gặp hên. Mới nửa buổi ông đã mua được một xe chó đầy. Về đến nhà thì vợ đi trả hàng, con đi học… Ông lôi giấy bút ra viết. Dòng cảm hứng dâng trào. Những con chữ thân quen bừng bừng rạo rực nở rộ trên mặt giấy. Ông cố ngoáy tay thật nhanh cho kịp, cho hết những ý nghĩ vùn vụt xuất hiện trong đầu. Ông cắm cúi viết, miệt mài viết cho đến khi chợt nhận ra vợ và đứa con gái đầu lòng đang ôm nhau thút thít khóc ở góc phòng. Ông thẫn thờ rời bút, hoang mang đến với họ. Mấy năm này gia đình ông đã ở thế ổn định. Khó khăn và nỗi buồn nào vào nhà mà ông không biết? Gạn hỏi ông mới biết, thì ra thấy ông đói viết, ngấu nghiến viết như thằng đói lâu năm vớ được bữa ăn ngon, bà thương bà khóc. Bà nói: Trong người có tơ thì phải nhả, nhưng chớ động tới ai. Viết xong không được mang in mà phải nộp để bà lưu giữ.

- Vâng! Tôi viết thì ai người ta in mà bà lo. Bà giữ cho tôi là tốt rồi.

Ông kéo đứa con gái vào lòng, xoa đầu an ủi nó. Nó ngước mắt nhìn ông nói trong nghẹn ngào:

- Bố ơi! Bố đừng viết nữa, con sợ lắm.

Lời nói trẻ thơ như cật nứa cắt lòng ông. Ông ứa nước mắt tự nói với lòng mình: “Bố hiểu rồi. Con đừng lo. Ngày ra tù là bố biết ngay: Một ngày ngoài ngàn thu ở thù. Khi ở trại làm y sinh, chưa được lên voi, chỉ ở mức lên chó thôi, đi tới đâu, gặp ai bố cũng được “đồng nghiệp” tay bắt mặt mừng, chuyện trò, động viên, chia sẻ… Ngày ra tù, về nhà con thấy đấy. Nhà mình vẫn hoang lạnh như nấm mồ hoang. Bạn bè thân thiết, hàng xóm láng giềng có ma nào đến sẻ chia với mình đâu. Thậm chí ra ngoài đường có người chẳng may gặp bố, họ còn kéo mũ che mặt lảng đi. Bố hiểu rồi, nỗi nhọc nhằn, cực khổ của bố trong những năm ở trại sẽ chẳng là gì so với nỗi nhọc nhằn, tủi hổ của mẹ và các con phải gánh chịu hàng ngày”. Một ngày ngoài ngàn thu ở tù. Bố ơi! Bố đừng viết nữa con sợ lắm. Thảo nào thi sĩ Phúc, văn sĩ Lam cứ phải viết chui, viết lủi. Mỗi lần viết cứ phải lén lút như tội phạm. Những câu thơ hay, những áng văn hay thẫm đẫm tình người – tình vật phải chịu chung số phận đớn đau nơi gầm giường, nóc bếp, đống rơm, chuồng lợn… Ông nghiêm túc nói với con:

- Bác Trần vừa tề gia nội trợ - nữ công gia chánh để bác gái bán hàng vừa viết truyện. Ông Trương vừa bới rác nhặt rau nuôi lợn vừa viết kịch. Bác Phùng vừa cắt tóc vừa làm thơ. Bác Loan vừa câu cá vừa vẽ… Chẳng lẽ bố lại không vừa làm lái chó vừa viết văn được sao? Không đọc không viết bố thấy tiếc thời gian lắm, tủi mình và chưa xứng với mẹ, với các con. Vả lại, không viết nữa tức là bố công nhận mình sai, phải đi tù là đúng.

Đứa con gái ngừng khóc, mặt nó đanh lại, biểu lộ sự sẻ chia nỗi đau với người cha. Nhìn mặt con, ông giật mình chợt nhận ra, trên gương mặt nó, có những nét gì phảng phất nét mặt Việt Vương – Câu Tiễn trong những năm nhẫn nhục. Lòng ông the thắt thương con và lo sợ cái gì lạ lắm đang ẩn giấu trong mắt nó. Ông thủ thỉ nói với con và cũng như nói với lòng mình:

- Con ơi! Oán hờn mà trả bằng oán hờn thì oán hờn ngày càng chồng chất. Con người hơn con vật ở chỗ đối xử với nhau có nghĩa có nhân. Lớn lên rồi con sẽ hiểu, không phải ngẫu nhiên mà Thánh Găng Đi nói: “Tôi không bao giờ tự hạ thấp mình ngang tầm của bạo lực.” Cái gì đã qua bố con mình cùng cho qua con nhé! Chớ để bụng, đừng thù oán ai cả… Càng đớn đau mình phải sống càng nhân hậu, con có hiểu không?

Lẽ ra ông có thể yên tâm sống trên cõi đời này với vị thế của ông lái chó kiêm văn sĩ, nếu không có một ngày…Ông khẽ lắc đầu… Ngày đó, ông mang chó về giao cho cửa hàng thịt chó Quang Vinh. Người ta rọ mõm con chó lại rồi treo ngược lên cành cây. Hai hàng dãi chó nhễu ra. Trong ánh mắt hoảng loạn của nó, ông nhìn thấy những tia oán hờn, trách móc, nhẫn nhục, xót xa… Người đồ tể xía một đường dao sắc lẹm. Một tia máu phọt ra đỏ hồng ấm như máu người. Con chó oằn mình giẫy giụa trong không gian. Càng giẫy máu càng phọt mạnh. Thế là xong! Một số kiếp nhỏ nhoi, yếm thế trước sức mạnh dửng dưng đến lạnh lùng của bạo tàn. Ông rùng mình, ân hận, xót xa… Thương cho một kiếp chó vốn rất tận tụy, trung thành với con người. Và từ đó ông bỏ việc…

 

Cứ thế, ông ngồi chết lặng rồi lại mỉm cười mơ hồ nhớ tới chuỗi năm tháng đổi nghề như thay áo. Những ngày ra ngoại thành để đóng gạch thuê. Nhớ một trưa hè nắng như đổ lửa. Đang nhào đất thì bỗng ngứa ran khắp lưng. Chân tay dính đầy bùn đất không làm sao mà gãi được. Chợt nhìn thấy con trâu đang cọ mình dưới gốc đa, thế là ông chạy ngay vào chiếm một chỗ. Bắt chước trâu, ông cọ mạnh tấm lưng trần vào gốc cây sần sùi. Cọ đến đâu sướng run đến đấy. Đang sướng, bỗng ông giật mình nghe thấy tiếng khóc nức nở như từ trên trời rơi xuống. Ngửa mặt lên nhìn thì… Ối giời ơi! Đó là cô đào Bích – nghệ sĩ Bích Đào lừng danh. Bích Đào nói trong tiếng nấc:

- Ngứa mà cũng không biết đường gãi gọn được như trâu… Em không thể ngờ đời anh lại có đận khốn nạn thế này… Về! Về ngay! Em sẽ kiếm cho anh nghề khác.

Ông lại lắc đầu cười, nhớ về những ngày sau đó nặn từng con lợn đất đem bán. Đúng là tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Người ta có nhiều mối giao hàng. Làm đến đâu có người đến tận nơi lấy hết tới đó. Hơn nữa, họ lại có vốn. Lợn đất của họ, phơi khô xong được đưa vào lò nung qua cho rắn, rồi lại còn được phết một lớp sơn đỏ rực màu. Đằng này lợn đất ông làm tiền đâu mà thuê nung. Đành chỉ phơi khô rồi quét qua một lớp vôi hồng trông cứ nhờn nhợt dài dại. Làm xong không có mối giao. Đành gánh hàng ra chợ bán lẻ. Mua vé vào chợ thì lãi có ngày chẳng đủ tiền vé. Bán ngoài cổng chợ thì công an, quản lý chợ bắt hàng. Gánh rao dọc phố thì tiếng rao đuối hơi, lạc chìm giữa dòng đời ồn ã… Gánh ra ngoại thành thì bán được nhúc nhắc nhưng nhiều lúc gặp mưa giữa đường, giữa đồng thấy cũng nản lòng. Có lần ông đã chịu ướt, dành tấm ni lông che lên miệng thúng mà những cơn gió cứ tớn lên, giật mạnh tấm ni lông để xối những hạt mưa vào những con lợn đất… Mươi phút sau, cả vốn lẫn lãi của ông đã trở thành bùn đất… Ông lắc đầu mủm mỉm cười: rõ đúng, tình thương vô ý gây nên tội. Ông lại bắt đầu những tháng ngày đi tìm việc. Ông nhẩm tính trên ngón tay. Phải mượn thêm cả những ngón chân. Mác-xim Gooc-ky thời lưu lạc trải qua bao nhiêu nghề nhỉ? Ơn giời, cuối cùng ông cũng neo đậu được cuộc đời bằng nghề mộc. Tai ông lại vang lên tiếng gọi: Ê… mộc! Ê… mộc! Tiếng gọi tuy xấc xược nhưng sau nó vẫn là cơm ăn, áo mặc, là tiền bạc, là cuộc sống của gia đình. Ông vẫn hồi hợp chờ mong tiếng gọi như trước đây từng mong thiên hạ gọi chó ơi! Chó ơi! Mấy chục năm gắn bó với nghề mộc cũng mang đến cho ông nhiều buồn vui đáng nhớ. Đoạn đời này nếu viết ra cũng được tập sách dầy cỡ dăm trăm trang chứ ít ỏi gì! Mà nhất định sẽ không tầm tầm, nhàn nhạt. Viết sách về cuộc đời mình ư? Tướng tá, chính khách gì mà hồi ký. Jiu-cốp đâu mà “nhớ lại và suy nghĩ”. Phải, mình sẽ viết lại những kỷ niệm buồn vui của một đời oan trái phải học tập, phải rèn luyện thế nào để giữ được tính người trong một hoàn cảnh trớ trêu, hoang dại. Hơn 40 năm sống trong oan sai mà giúp vợ nuôi 4 con ăn học nên người, viết được dăm chục tác phẩm các loại. Đời người thế kể cũng chẳng đến nỗi nào. Thân phận cỏ cây như thế phải đâu là bèo bọt. Có cây còn nuôi được trâu bò, chó đẻ còn chữa được ỉa chảy, nhọ nồi còn cầm máu hay hạ được cơn sốt… Cỏ cây như thế còn trăm lần hơn, vạn lần gấp những tên tuổi lẫy lừng mà độc hại. Phải, mình sẽ viết lại cuộc đời mình để sẻ chia với bè bạn, người thân. Biết đâu sau này, ai đó ngồi thăm thẳm trên ghế cao quyền lực, đọc cuốn truyện này sẽ phải ngập ngừng nghĩ suy trước khi thò tay ký một quyết định liên quan đến thân phận một con người, dù đó là thân phận con sâu cái kiến.

Cõi trời chỉ có cỏ hoa

Cõi người – nếu có, chỉ là chữ NHÂN. 

Nghĩ tới đây, dòng cảm xúc trong ông dâng lên dào dạt. Ông lập cập đeo kính rồi lập cập ngồi ngay ngắn trước màn hình, tay bật máy, tay rê rê con chuột. Rồi như có sức mạnh của quyền năng, các ngón tay ông bắt đầu múa nhanh trên bàn phím. Những con chữ hối hả chen nhau xuất hiện trên màn hình. Ông cứ gõ, gõ, tay như múa… Bỗng ông giật mình ngừng tay khi chợt nghe thấy tiếng nấc rất quen thân của vợ. Tiếng nấc của một thời tưởng đã là ngày xửa ngày xưa, không bao giờ trở lại.

- Ông!... Ông viết cái gì thế này? Sao lại bắt đầu bằng ngày ông bị đi tù, hở giời!

- Tôi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đời mình ấy mà.

- Ông dừng ngay, dừng ngay không được viết nữa! Tôi lạy ông, xin ông đấy. Bới lại những cái đó làm gì. Phế thải hạt nhân đã chôn rồi thì không được bới, nguy hiểm lắm, ông a...à…ạ!...

- Bà yên tâm. Bây giờ đổi mới rồi. Con người đối xử với nhau nhân văn hơn trước nhiều rồi. Mà bà còn lạ gì tôi, nào có biết hận thù, căm uất ai đâu mà bà phải lo, phải sợ. Họ đánh mình đau quá thì mình rên. Rên cho nó đỡ đau, bà ạ! Con người ai chẳng có quyền được Rên.

- Sắp xuống lỗ rồi mà ông còn thơ ngây thế? Ông tưởng Rên là tội nhẹ lắm ư?  Các ông ngày xưa ngợi ca – hát ông ổng còn bị kẻ độc miệng cho mang vạ. Giờ lại đòi Rên. Quyền được Rên! Ơ hơ…quyền được Rên! Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn hết chỗ nói…

Nghe vợ mắng, ông buông tay sững sờ… ờ… ờ… Bà ấy nói… Bà ấy nói… Ông đưa mắt nhìn ra ngoài trời… Mưa! Mưa! Mưa vẫn xối xả. Trong làn mưa mù mịt ông lại thấy quản giáo Quang lừ lừ đi vào, tay vẫy vẫy, miệng làu bàu mà như ra lệnh cho ông: Hồ hởi, phấn khởi nhé! Hồ hởi, phấn khởi nhé!.

Một làn gió lạnh thổi thốc vào nhà. Ông rùng mình, tê buốt.

 

                                                      Cao ốc N5A, Trung Hòa- Nhân Chính, 5/2007

                                                                                  Lê Mai

 

 

 

 

 27-6-09

Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2009

Tự dưng

Tâm bất an, mà long sàng thì không có rệp! tại sao?
Đêm ngủ mộng mị chập chờn, ngồi lên hút thuốc hoài! Lý do tại sao?
Xem báo một hồi, nóng gà chỉ muốn lầm bầm chửi? Tại sao?
Nói chuyện dăm câu với chồng, muốn quánh! tại sao?
Ăn cái gì cũng thấy ngon mà hổng dám đớp. Tại sao?
Chán như con gián bò quanh lu!

Đọc tiếp ...

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2009

Tự dưng nhớ vụ Việt kiều hai mấy năm trước...

Hôm nay ngồi lan man đọc ba cái lăng quăng trên mạng, thấy Việt kiều cũng nhiều người oái oăm kinh, tự dưng nhớ lại cái hồi nẳm lâu lắm rồi được mấy bà bạn rủ đi chơi cùng Việt kiều...
Năm đó cỡ 90-91 gì đó, mấy cô bạn bên Viện khoa học VN rủ đi chơi , nói là có hai anh Việt kiều Ý- Mỹ sang hợp tác bên viện làm ăn, mấy ảnh rủ tụi mình đi chơi. Nể bạn bè mời nhiều thôi thì đi. Hồi đó tui cũng chảnh chó lắm, còn trẻ mừ lại lắm anh theo đuôi, lại vừa ly hôn nữa chớ.
Hẹn lúc 6 giờ chiều bên nhà khách biệt thự Dạ lý hương của T78, năm sáu cô cộng tui nữa là bảy, phóng xe đến, chờ ở sảnh đợi hơn 50 phút  sau khi gọi điện lên báo đã tới, ảnh với ảnh cùng hai cô chân dài váy ngắn mới lững thững cặp kè như rắn bước xuống, tui thấy tự ái vì chờ lâu, định biến mấy lần, nhưng bị cô L, K giữ lại, nói là thôi mà thông cảm Việt kiều mà....Lúc ấy Việt kiều về nước thấy ông chính phủ trọng vọng khiếp, xe đưa rước là xe Volga của viện nhá. Kinh chưa?
Cả đám phóng xe gắn máy vòng vèo sang tiệm ăn Huế Ngự Bình, các ảnh các chỉ -đi xe hơi... măm măm xong anh Việt kiều Ý thọt chân trả tiền đâu vài ba trăm ngàn, mấy ảnh chỉ rủ tụi này đi uống cà phê ở KS nổi 5 Sao bên Bạch đằng... dưng mà mấy chỉ chân dài kiu dzìa khách sạn thay đồ đẹp mới đi, tụi này lại phải rồng rắn kéo nhau về cái sảnh cũ ở nhà khách.
Mèng, chờ từ 8 giờ rưỡi đến hơn gần mười giờ rưỡi, mới thấy các anh các chị của mấy ảnh xà nẹo nhau đi xuống. Bụng bảo dạ đù mẹ làm đéo gì mà lâu thế, chả lẽ ngủ...mấy cô bạn thì cứ chèo kéo mình chờ đi tiếp.
Vào đến vũ trường ra pit nhảy vài cái, nghe chị của anh VK thọt đang oang oang với cô bạn kia rằng, "ảnh coi dzị chớ được lắm, tháng nào cũng gửi cho triệu đồng tiêu xài, đôi giày ảnh mới mua cho ba trăm đô. Ảnh tàn tật cái chân chứ khỏe lắm, mới lúc nãy ổng đòi làm hai phát rồi mới đi đến đây đó!"
Tui nghe xong, ặc một phát suýt nữa thì sặc nước miếng- hóa ra bảy cô kỹ sư Dziệc Nam ngồi chờ Việt kiều dài cổ ra mấy tiếng , tưởng ảnh bận chi hóa ra mấy ảnh bận đụ gái....
Tui bỏ phát một dông thẳng - Hôm sau gọi điện cho mấy cô bạn chửi cho một tăng vì cái tội ngu, cứ tưởng Việt Kiều là ông Trời mà ngồi chờ nó chơi gái xong rồi dắt đi chơi.
Tui cũng ngu co kém gì, cái tội nể bạn, hút mẹ nó gần hai gói thuốc lúc chờ đợi. Trong khi đó thì băng kiến trúc sư bạn tui dẩu mỏ uống say mèm...chờ tui uống chung...
Mẹ,  tui chửi tui thậm tệ đến cả tháng sau đó, cho chừa cái tật tò mò...Và ghét Việt kiều kinh khủng, mấy ông chú, em trai gái của tui ở bên Pháp , Úc về tui cũng đéo khoái gặp nữa....cho dù bọn họ đi đâu cũng chỉ nói họ là người Việt, ăn bún ốc , bún bò lề đường xó chợ , bê tô húp xùm xụp cạn tới đáy thế mà tui vẫn không làm sao rũ bỏ được cái cảm giác khinh khinh, tởm tởm, và ghét Việt kiều.
Mãi tới năm 2006 có mấy thằng bạn về từ Mỹ kiếm, gặp gỡ, tui tuyên bố rõ ràng, mày trả nửa, tao trả nửa, tao đéo cần chúng mày bao tao.....đồng ý thì đi chơi không thì miễn....
Rất xin lỗi những bạn Việt sống ở nước ngoài mà không có cái tính như mấy cha tui gặp hồi nẳm nha, nhưng ở đâu thì cũng thế, lắm Việt kiều hay vỗ ngực xưng danh lắm. Tui vốn nhớ dai, thù dai......nhưng không đến nỗi mà lý do "theo đạo vì muốn lấy chồng Việt kiều"....Ặc, chuyện nọ xọ qua chuyện kia, ý tui là tui hem thích mấy cha Việt kiều nổ, banh, tởm, tục chỉ được có cái danh Việt kiều.
Tui nói thật, tui thì vốn dĩ cũng mất dạy, nhưng ai tử tế thì có là ăn mày tui vẫn thích làm bạn, mà ai khốn kiếp thì dù có bà con thân tộc tui cũng ỉa vào!
Cái điệu này hum nay bị chửi cho coi!


Đọc tiếp ...

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2009

Lại đi vớ! Lại đi chôm! xa mà gần, gần mà xa!

Không chôm lại bị gỡ! Tiếc chôm vội chưa xin phép tác giả- xin lỗi nha!

Quyền lực, lý luận và… bánh rán
13/07/2009 10:27 (GMT + 7)
(TuanVietNam)- Quan niệm coi trọng tình cảm hơn lý lẽ đã khiến người Việt không ưa kiện cáo, nhưng lại sa đà vào những cuộc đôi co vặt triền miên. Xưa nay, người Việt thường có xu hướng tìm kiếm cái cốt lõi đời sống, cái tâm thế sinh tồn đằng sau những vấn đề phức tạp để giải quyết cái “căn nguyên của mọi căn nguyên” thay vì đối mặt với chính những vấn đề nan giải....


Lý lẽ của ông chủ

Trong dân gian Việt Nam có câu chuyện vui kể về một ông quan đi ăn cỗ bị tên hầu ăn hết món ngon nên dọc đường về nhà ông ta dở lý lẽ đạo đức ra hành tên hầu. Tên hầu đi trước ngựa thì ông quát “Láo! Sao mày dám đi trước tao?”. Tên hầu đi ngang ông cũng cáu: “Thằng này hỗn thật! Mày lại dám sánh ngang với ông à?!”. Tên hầu vội lùi lại đi sau ngựa, ông càng cáu: “Thằng mất dạy! Ông là tù hay sao mà mày áp giải ông?”.

Tên hầu ức đến phát khóc nhưng vẫn cố nén giận từ tốn hỏi chủ: “Con đi kiểu gì ông cũng nói, con biết làm thê nào cho ông vừa lòng?”. Lúc ấy, ông chủ mới nói toạc cội nguồn những lý lẽ của ông, rằng: “Tại sao lúc nãy mày ăn tranh cái bánh rán của tao?”

Câu trả lời của ông quan bộc lộ cái tâm thế của ông trong lúc đó, cái tâm thế đã đẻ ra những lý lẽ đưa tên hầu vào ngõ cụt. Thực chất của những lý sự mà ông quan đã đưa ra là ông ta đã luôn thay đổi hệ quy chiếu để liên tiếp đặt tên hầu vào vào vị thế của kẻ có tội.

Khi tên hầu đi trước, thì ông đặt quan hệ hai người vào hệ quy chiếu đạo đức để phê phán nó không nhường bước chủ. Khi nó đi ngang ông, ông lại đặt quan hệ hai người vào hệ quy chiếu quyền lực để cho rằng tên hầu dám tự coi mình bằng vai bằng lứa với ông. Khi tên hầu đi sau lưng ông, ông lại đặt quan hệ của ông với nó vào hệ quy chiếu hình sự để kết tội nó coi ông là tội phạm. 

Ảnh: amthuc365.vn


Ở đây, quyền lực đã tham dự vào lý luận trong vai trò xoay đảo các chuẩn mực, các hệ toạ độ để xem xét hành vi. Không có lý lẽ nào cãi lại được ông quan vì ông nắm quyền quy định luật chơi!

Trong cảnh huống lý luận trở thành bình phong để che đậy và triển khai tâm thế thì mọi đối thoại trong bình diện lý luận là những lỗ lực vô bổ. Dù tên hầu có tìm ra lý lẽ sắc sảo để bác bỏ sự qui tội đầy suy diễn của chủ thì anh ta cũng chỉ đưa mình dấn sâu vào tình thế bế tắc, vì mọi lý lẽ sắc sảo của anh ta đều củng cố và tăng cường cái ý tưởng xấu về anh ta trong tâm thức ông chủ, làm bùng lên ngọn lửa tâm thế tức giận.

Và xét trên bình diện lý luận thì chân lý của anh ta cũng sẽ bắt gặp quyền phủ quyết của ông chủ bởi một siêu lý là: “Mày lại dám dạy khôn ông ư?”, hoặc trắng trợn hơn: ”Ông sai đấy, thì đã làm sao? Mày định đem lý sự để chống lại ông phỏng?”

Vậy là, trong thân phận kẻ tôi tớ thì dù tên hầu có dùng lý luận xác lập được cho mình một chỗ đứng hợp đạo lý trong không gian thực, thì chính hành vi lý luận đúng đắn đó lại là sự vi phạm luật chơi sâu sắc hơn trong không gian quyền lực. ở đây, cuộc đối thoại không phải là cuộc thẩm vấn trong toà án có luật pháp thẩm định, cũng không phải là cuộc đấu trí trong cuộc chơi có luật chơi bảo đảm công bằng, mà là một cuộc xua đuổi, truy kích của người trên với kẻ dưới, một cách triển khai quyền lực, một hình thức phát lộ tâm thế.

Tâm thế chi phối cách nhìn, cách nhìn tạo ra lập luận và lập luận lại luôn luôn biến hóa khôn lường nhờ quyền lực luôn luôn đứng cao hơn các chuẩn mực thành văn hoặc bất thành văn. Đó là tấn bi kịch hài lý luận mà tên hầu đã bị ông quan đẩy vào. Cái trớ trêu ở chỗ khi tên hầu chân thành suy nghĩ về đạo lý và đối chiếu những chuẩn mực đạo lý với hành xử của mình thì ông quan kia lại chỉ nghĩ về cái bánh rán mà thôi!

Hội giả trang của ý chí và quyền lực

Lý luận kiểu ông quan trong câu truyện trên đây tiêu biểu cho cơ chế hoạt động lý luận trong các xã hội phương Đông - nơi dường như các hoạt động lý luận có xu hướng vượt thoát khỏi những hình tướng ổn định của luật chơi khoa học để vong thân trong những hội giả trang của ý chí và quyền lực. Và như vậy, lý luận khó có thể là chỗ dựa của người dân để đòi quyền sống hay công lý.

Vì muốn phân biệt đúng sai trong các cuộc tranh cãi nơi tòa án hay trên công luận, thì điều tiên quyết là chuẩn mực xem xét vấn đề phải rõ ràng và ổn định. Nhưng trong xã hội trọng tình, cảm tính và linh hoạt như xã hội Việt Nam thì các chuẩn mực xem xét mọi vấn đề phần lớn tùy thuộc vào con người cụ thể trong bối cảnh cụ thể.

Nhưng dù trong xã hội Việt Nam cho con người lý luận có lắc lư chảo đảo đến đâu thì cái quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” vẫn là một quan niệm ổn định, giống như hòn bi dưới đáy con lật đật. Trong Truyện Kiều có hai phiên tòa quan trọng thì cả hai đều xử theo tình. Trong phiên tòa thứ nhất xử vụ Thúy Kiều bỏ lầu xanh chung sống bất hợp pháp với Thúc Sinh, viên quan mặt sắt đen sì đã tuyên án trị tội Kiều rồi, vậy mà khi thấy Kiều quả thực có tài, người đại diện pháp luật “mặt sắt đen sì” này không ngần ngại phán quyết ngược lại, tha bổng cho Kiều và tuyên bố một luật chơi văn hóa cao hơn luật pháp:

Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý song trong là tình

Ở phiên tòa thư báo ân báo oán, “chính danh thủ phạm” Hoạn Thư lại được bà lớn Kiều tha bổng cũng chỉ vì Hoạn Thư kể lể chút tình đã giành cho bà lớn.

Chính cái quan niệm coi trọng tình cảm hơn lý lẽ đã khiến người Việt Nam không ưa kiện cáo, nhưng lại sa đà vào những cuộc đôi co vặt triền miên. Câu thành ngữ "kiến kiện củ khoai" chẳng phải và bằng chứng về tâm lý hoài nghi công lý của của cả một cộng đồng đó sao? Cái tính ghét kiện cáo, hơn ghét bất công, ghét kẻ la làng hơn ghét kẻ cắp vẫn là một căn bệnh trầm kha trong tâm lý người Việt chúng ta hôm nay mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dung một xã hội pháp quyền.

Khi thấy dân tình kiện tụng các quan hay khuyên “Sao hai bên không ngồi lại với nhau đi?”. Lời khuyên chân tình đó bộc lộ một quan niệm đầy tính tương đối về chân lý, theo đó, những mâu thuẫn khiến người ta đưa nhau đến tụng đình không phải là những mâu thuẫn về định hướng tư tưởng có liên quan đến số phận của cả một cộng đồng, không phải là những chiến lược khoa học kỹ thuật có thể đưa đất nước lùi lại cả trăm năm…mà chỉ là mâu thuẫn giữa hai cá nhân vì những ấm ức liên quan đến quyền lợi hay danh dự nào đó có thể thu xếp được!

Cái quan niệm đơn giản và dung tục đó khiến người ta cư xử với những vụ kiện lớn vì đại nghĩa, những kiến nghị lớn vì quốc kế dân sinh…một cách vô trách nhiệm. Những người kiên quyết kiện Vedan và các công ty hủy hoại môi trường như Vedan vì họ muốn có một môi trường sống lành mạnh cho hàng triệu con người, muốn các công ty vào đầu tư ở Việt Nam phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định về môi trường của Việt Nam.

Những mục đích cao cả này xuất phát từ sự am hiểu về khoa học và tường tận về pháp lý, muốn thuyết phục họ rút đơn hay bác bỏ đơn của họ phải có sự đối thoại khoa học và pháp lý sòng phẳng, nghiêm chỉnh, không thể hòa giải theo lối khuyên nguyên đơn ngồi lại với bị đơn để thỏa thuận những điều kiện gì đó, trong khi vấn đề môi trường đe dọa quốc kế dân sinh trong những đơn từ kiến nghị kia vẫn con nguyên đấy!

Nghĩa là, không thể phớt lờ khía cạnh khoa học và pháp lý của vấn đề, đem quyền lực ra đẻ xoay đảo chuẩn mực, thay đổi luật chơi theo kiểu ý chí luận, đánh bùn sang ao.

Ảnh: byu.edu

Chiếc bánh rán và siêu giải quyết

Xưa nay, người Việt chúng ta thường có xu hướng tìm kiếm cái cốt lõi đời sống, cái tâm thế sinh tồn đằng sau những vấn đề phức tạp để giải quyết cái “căn nguyên của mọi căn nguyên” thay vì đối mặt với chính những vấn đề nan giải. Chúng ta hay nói, “rốt cục là”, “cốt tuý vấn đề là” , “thực chất là...”, “chung quy là....” chính là chúng ta đang làm cái thao tác giải mã của ông quan khi nói ra vấn đề cái bánh rán trong bữa tiệc kia.

Chiếc bánh rán tung ra như một siêu giải quyết, đập tan mọi lý lẽ, xóa hết mọi ngụy biện, tên hầu dù đúng đến mấy cũng phải cúi đầu. Đó là dùng bản lĩnh hành động, "dằn mặt" để giải quyết sự bế tắc nan giải của bài toán lý luận mà lịch sử xã hội đặt ra.

Người ta vẫn nói rằng những bế tắc của lý luận chỉ có thể giải quyết bằng hành động lịch sử hành động trong đời sống xã hội là như vậy đó! Triết lý với cây búa đập vỡ các thần tượng của Nietzsche hay tư tưởng nói rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí” của K.Marx tuy khác nhau về bản chất nhưng có cùng một định hướng ứng xử theo lối siêu giải quyết.

Ta cần hiểu siêu giải quyết trong các tư tưởng của họ là siêu giải quyết trong phạm vi toàn xã hội và ở cấp độ những nhiệm vụ lịch sử của môt thời kỳ. Nếu áp dụng máy móc tư tưởng đó vào các việc cụ thể trong đời sống thì chỉ dẫm đến sự can thiệp thô bạo vào lô gích đặc thù cuả một lĩnh vực, đánh tráo vấn đề, xí xoá vô nguyên tắc dẫn đến những hành vi bạo lực vi phạm luật pháp và luật chơi, tương tự như người chơi cờ bị chiếu tướng, không gỡ được nước chiếu bí thì quay sang tát tai đối thủ hay cầm cả bàn cờ đập lên đầu anh ta.


Tình trạng đơn giản hoá, đánh tráo vấn đề, đánh tráo chuẩn mực, đánh tráo nhiệm vụ đẫn đến đảo ngược công tội, lẫn lộn trắng đen là một hiện tượng khá phổ biến hiện nay, mà cơ chế ở chiều sâu của tâm thức là thói tuỳ tiện manh mún và thực dụng trong nhận định suy tư và lý luận. Lẽ ra phải bắt kẻ cắp thì lại kết tội kẻ la làng là gây ồn, lễ ra phải xem xét phân minh rành rọt là rõ đúng sai trong các quan hệ mâu thuẫn thì lại kêu gọi đoàn kết, bỏ qua....

Hậu quả của tâm thức ngại lý luận, sợ lý luận, lười lý luận, dùng các hành vi phi lý luận để phủ quyết bản thân hoạt động lý luận sẽ dẫn xã hội đến tình trạng hỗn loạn u mê trong tầng tầng ngộ nhận chân thành và nguỵ biện.

  • Đỗ Minh Tuấn

* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/7466/index.aspx
Đọc tiếp ...

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2009

PTD đang giữ một bí kíp võ công rất thâm hậu???????

Luật sư - tiến sĩ Phạm Hồng Hải, người bào chữa cho bị can Phạm Tiến Dũng thì cho biết bị can này đã chết ngày 11-7-2009 tại Bệnh viện 19.8, Bộ Công an.

Một lãnh đạo Viện KSND tối cao cũng xác nhận thông tin này và cho biết thêm Phạm Tiến Dũng chết vì những biến chứng của bệnh tiểu đường, sau 5 ngày cấp cứu tại bệnh viện. Đến hôm qua (13-7) các cơ quan chức năng đã hoàn tất khám nghiệm pháp y để giao thi thể về gia đình.

Phạm Tiến Dũng sinh năm 1973, trú P.Láng Hạ, Q.Đống Đa, Hà Nội, nguyên Trưởng phòng Triển khai dự án 6 (PID6) và Phòng Kinh tế kế hoạch thuộc PMU18 (bị bắt ngày 3.3.2006, bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 - Bộ Công an).

Phạm Tiến Dũng nắm giữ nhiều thông tin quan trọng về các sai phạm xảy ra ở PMU18.
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=326477&ChannelID=6

Ông Dũng có tiền sử bệnh hen, kể từ khi bị bắt đã phải nhiều lần vào cơ sở y tế để chữa trị. Gia đình bị can Dũng từng có đơn đề nghị cơ quan điều tra cho ông được tại ngoại, nhưng không được chấp nhận. Ông Bách cho biết qua tiếp xúc, ông nhận thấy sức khỏe ông Dũng không được tốt.
http://www.cand.com.vn/vi-VN/phapluat/2009/7/116279.cand
Mới ba sáu tuổi, cái tuổi rất khó bị tiểu đường, trừ khi do di truyền của dòng họ. Trước đây chưa hề thấy đề cập đến PTD bị bệnh gì. Nay chết vì tiểu đường. Một câu hỏi được đặt ra: PTD đang giữ một bí kíp võ công rất thâm hậu nên triệt đi diệt khẩu?
Nếu người đọc có nghi ngờ như thế thì nhà nước và báo chí cũng đừng khép tội dân vào cái tội "Đại nghịch phản quốc" bởi vì thông qua báo chí các vị đã nói dối dân quá nhiều, các vị đã làm mất lòng tin của chúng dân. Chính những chuyện thâm cung bí sử, diệt nhau để nắm quyền cũng đã từng xảy ra với những thông báo đột tử mà không công khai khám nghiệm lâm sàng, nên sự nghi ngờ là điều hiển nhiên.
Lấy nó để mà răn mình " một lần bất tín vạn lần bất tin" ....
Đọc tiếp ...

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2009

Tám phát đầu tuần theo lề phải!

Liệu liệu nha mấy cái đứa blogger viết xiên tạc phản động thù địch âm mưu lật đổ cấu kết thủ đoạn tinh vi lắm mồm .....ặc ặc! Coi chừng chúng ông nhá! mặt trận hẳn hoi đấy! Còn mấy đứa nào nộp thuế thì cố mà nộp cho nhìu để ông nuôi mặt trận......

  • http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2009/7/196824/
  • Trận chiến phía trước

Theo lãnh đạo Cục A.42, lợi dụng sự tiến bộ của KHKT hiện đại trong lĩnh vực công nghệ thông tin, thời gian qua các tổ chức phản động đã triệt để khai thác thế mạnh từ hình thức lập các trang web, blog, báo điện tử để tuyên truyền, kích động và lôi kéo nhiều tầng lớp xã hội tham gia. Trong đó, đối tượng trí thức, sinh viên, học sinh, công nhân lao động, người dân ở các vùng quê được chúng nhắm đến với nhiều thủ đoạn tinh vi, nhằm thu hút lực lượng phục vụ cho âm mưu của chúng.

Các tờ báo điện tử như: “Tổ quốc”, “Tự do ngôn luận”, “Diễn đàn X-Cafe”… đang cố tìm cách để thu hút sự tham gia của các đối tượng cơ hội chính trị, phản động mới. Các vấn đề về khai thác bauxite ở Tây Nguyên; Hoàng Sa, Trường Sa, được các tờ báo điện tử này tung hô lên những luận điệu xuyên tạc sự thật, kích động chống đối và gây chia rẽ nội bộ. Những âm mưu này đã được lực lượng an ninh nhanh chóng phát hiện kịp thời.

Có được những thắng lợi trên mặt trận chống khủng bố này, như nhận định của lãnh đạo Cục A.42, đó là nhờ sự chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo các cấp, sự giúp đỡ thầm lặng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại và các tầng lớp nhân dân tại nhiều địa phương trong cả nước. Và đặc biệt là sự hợp tác hiệu quả của các nước trên thế giới trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Đây là chỗ dựa và niềm tin để mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng an ninh nhân dân tiếp tục cuộc chiến thầm lặng phía trước, vì sự bình yên cho cuộc sống người dân và sự phát triển, đi lên của đất nước

HOÀI NAM

Ông xin vào công an kiếm ít đất cất nhà! Ngon à nha!
http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2009/7/196629/

CHÍNH TRỊ
Thêm nhiều chế độ chính sách cho chiến sĩ công an nhân dân
Thứ sáu, 10/07/2009, 14:38 (GMT+7)

(SGGP-12G).- Theo Nghị định 57/2009/NĐ-CP của Chính phủ vừa ban hành (sửa đổi, Khoản 3 Điều 8 của Nghị định số 12/2007/NĐ-CP quy định về công dân phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân), trong thời gian tại ngũ, hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn được hưởng các chế độ chính sách theo quy định tại Luật Công an nhân dân, các nghị định của Chính phủ có liên quan.

Các đối tượng này được hưởng các chế độ, chính sách gồm: hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn từ tháng thứ 19 đến tháng thứ 24 thì hằng tháng được hưởng thêm 200% phụ cấp cấp bậc hàm; hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn từ tháng thứ 25 đến tháng thứ 36 thì hằng tháng được hưởng thêm 250% phụ cấp cấp bậc hàm; hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn được tính nhân khẩu trong gia đình khi gia đình được cấp hoặc điều chỉnh diện tích nhà ở, đất xây dựng nhà ở và đất canh tác”. Các chính sách này bắt đầu thực thi từ 1-9-2009.

NHỊ HÀ

Đọc tiếp ...

Mới thấy bài này trên Vietnamnet

Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên?
13/07/2009 06:21 (GMT + 7)
(TuanVietNam) - Nghĩ về đất nước thấy trách nhiệm, nhìn ra thế giới thấy ước mơ. Bài viết của TS. Vũ Minh Khương nhằm thể hiện dũng khí của người Việt ta trong giai đoạn đầy thử thách hiện nay.


Chuyện xưa kể rằng: Trong một trận đánh quyết liệt có tính sống còn, nhưng quân sĩ cứ lui dần, lui dần đến bờ sông. Để thể hiện ý chí quyết tâm, các vị tướng đã quyết định chặt đi cây cầu duy nhất để không còn đường rút. Sau đó, khi giặc đến, tất cả đều hét vang xông lên can trường chiến đấu với ý chí vô song. Trận đánh thắng lợi và quyết định của các vị tướng khi đó đã trở thành một bài học lịch sử cho sự phát triển.

Dựa trên tích cổ này, trong một bài viết, TS. Vũ Minh Khương đã chọn tựa đề: Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên? nhằm thể hiện dũng khí của thế hệ người Việt Nam chúng ta hôm nay. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu bài viết đầy tâm huyết này để mọi người cùng suy ngẫm.

I. Định lượng nỗi đau dân tộc:

Mỗi con người khi thấy dân tộc mình ở vào vị thế thấp kém so với tiềm năng đều mang trong mình một nỗi đau. Nỗi đau này dù không ai giống ai hoàn toàn và không thể đo đếm chính xác. Thế nhưng, nó cũng có thể ước định được ở một chừng mực nhất định. Dưới đây là một phương cách đơn giản.

Mỗi người hãy tự trả lời bốn câu hỏi sau:

  1. Chúng ta có thấy xót xa hổ thẹn về vị thế hiện nay của dân tộc mình không?

  2. Chúng ta có thấy lo lắng cho tương lai của đất nước mình không?

  3. Nếu có cơ hội, thế hệ chúng ta có đủ sức đưa dân tộc mình đến một vị thế vẻ vang (hơn mức hiện nay rất nhiều) không?

  4. Cơ chế hiện thời có cho bạn làm được điều mà bạn hết lòng khao khát làm cho đất nước mình không?

Với mỗi câu hỏi, câu trả lời “có” được điểm 1 và câu trả lời “không” được điểm 0. Theo cách này, nỗi đau dân tộc của mỗi con người được đo bằng tổng số điểm của ba câu hỏi đầu trừ đi điểm của câu hỏi 4. Ví dụ, người mà câu trả lời là “có” cho cả ba câu hỏi đầu và “không” cho câu hỏi 4 sẽ có mức đau bằng 3 (1+1+1-0=3); đó là nỗi đau ở mức tột cùng. Trái lại, người mà câu trả lời là “không” cho cả ba câu hỏi đầu và “có” cho câu hỏi 4 sẽ có mức đau bằng -1 (0+0+0-1= -1); trong trường hợp này, người trả lời không có nỗi đau gì và thấy rất hài lòng với hiện tại.

Trong tập thể hàng triệu người, mức đau này có thể khác nhau, nhưng có lẽ, nhiều người cùng chia sẻ một cảm nhận là mức đau trung bình của hàng triệu người Việt chúng ta cũng không thấp hơn quá xa so với mức tột cùng nói trên. Người viết bài này mong rằng Ban chấp hành trung ương Đảng và Quốc hội khi có dịp hội họp có tổng hợp và báo cáo với quốc dân đồng bào nỗi đau này của mình. Nếu mọi người thấy không đau mà lại tự hào vì thấy dân mình được “xếp hạng hạnh phúc hàng đầu thế giới”[1] thì cũng là điều đáng suy nghĩ lắm.

II. Định lượng nguy cơ mất nước:

Một thước đo khác có tính cấp bách hơn là về nguy cơ mất nước. Người xưa gợi ý ba thước đo về nguy cơ mất nước của một quốc gia:

  1. Thứ nhất, người trên sai mà quan chức dưới đều nín lặng.

  2. Thứ hai, người được giao trọng trách không thấy việc mình đảm nhận là thiêng liêng và gian khó mà lại coi đó là đặc quyền đặc lợi để vinh thân, phì gia, và kết bè kéo cánh hưởng lộc.

  3. Thứ ba, người người đua chen, từ quan đến dân, lao vào cách làm ăn chụp giật và vụ lợi cá nhân trong sự xem thường đạo lý và sự tê liệt lòng tin vào công lý.

Theo người xưa, nếu điều 1 là đúng thì nước này đang ở vào thế suy vi; nếu điều 2 là đúng thì nước này sẽ khốn khó trong sự chia rẽ lục đục; nếu điều 3 là đúng thì nước này sắp loạn. Nếu cả ba điều trên đều đúng thì nước mất đến nơi rồi.

Ảnh minh họa: businessweek.com

III. Tình thế nước ta và đôi điều trăn trở

Ai đã sống ở nước Nhật chắc đều ấn tượng về sự sâu sắc và cẩn trọng trong hành xử của dân tộc này. Họ đã làm nên những điều kỳ vĩ trong cải cách Minh Trị trong nửa cuối thế kỷ 19 và sự vươn lên kỳ diệu từ đống tro tàn sau thế chiến thứ Hai.

Điều đặc biệt đáng nói là Nhật Bản đã và đang là quốc gia có sự đồng cảm và giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất trong công cuộc phát triển vừa qua. Thế nhưng, dường như sự kỳ vọng cao của họ về một dân tộc Việt Nam có thể so sánh được với Hàn Quốc hay Nhật Bản có lẽ đang tắt dần. Quan sát động thái hợp tác của Nhật Bản với nước ta có thể giúp chúng ta thấy phần nào cảm nhận của bè bạn thế giới về tương lai của nước Việt chúng ta.

Năm 2006, tại Tokyo, Nhật Bản và Việt Nam có tuyên bố chung rất long trọng và ấn tượng khẳng định hai bên cam kết xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược[2]. Viện trợ của Nhật Bản cũng từ đó tăng lên.

Thế nhưng, Việt Nam, khác với những quốc gia và vùng lãnh thổ có công cuộc phát triển kỳ vĩ (như Hàn Quốc hay Đài Loan), viện trợ nhiều lên không làm chất lượng thể chế của chúng ta tốt lên, mà trái lại sa sút trong sự so sánh với thế giới (hình 1). Đáng buồn hơn nữa, tháng 12 năm 2008, Nhật Bản thông báo tạm ngừng viện trợ cho Việt Nam vì vấn đề tham nhũng và tin này công bố rộng rãi khắp thế giới.[3]

Hình 1. Việt Nam: Viện trợ Nhật Bản và chất lượng thể chế

Nguồn: số liệu về ODA Nhật bản (khoản cho vay) từ bộ ngoại giao Nhật bản; số liệu về hiệu lực chính phủ từ Ngân hàng Thế giới. (Click vào để xem hình lớn)

Ví dụ trên cho thấy sự sa sút của chúng ta không phải do ai chống phá, mà chính do sự yếu kém trong hệ thống trước công cuộc phát triển của dân tộc.

Trong thực tế hiện nay, chúng ta không thể đổ lỗi cho cá nhân cụ thể nào mà phải thấy đây là “lỗi hệ thống” như nhiều người đã từng nêu ra. Bản chất của lỗi hệ thống là sự khủng hoảng về hệ thức tư duy[4]. Nguyên nhân gốc rễ của sự khủng hoảng này là do những định đề và thiết kế tổ chức kiểu cũ đã trở thành lực cản cho quá trình nhận thức của tư duy và cải biến của xã hội sang khung thức vận hành mới.

Nếu hệ thống quản trị xã hội không chủ động tạo sự chuyển dịch có tính hồi sinh sang khung thức phát triển mới thì xã hội chắc chắn sẽ trải qua giai đoạn khủng hoảng trong sự suy tàn của hệ thống cai trị hiện thời. Trái lại, nếu hệ thống biết chủ động nắm bắt qui luật, mạnh dạn bước vào công cuộc hồi sinh thì nó có thể bước vào trạng thái khởi phát (xem Bảng 1 dưới đây).

Bảng 1. Đặc trưng Hệ thống trong Lựa chọn Chuyển đổi: Suy tàn hay Khởi phát

Tiêu chí Suy tàn Khởi phát

Tầm nhìn

Bị che mờ bởi hào quang quá khứ và sự lú lẫn của tư duy cũ được gia cường bởi lợi ích cá nhân và phe nhóm.

Hướng về khát vọng tương lai chia sẻ sâu sắc bởi mọi tầng lớp nhân dân. Đó là ước mơ đời đời thúc giục, người người khao khát.

Chiến lược

Mơ hồ; chủ yếu xoay xở để giữ ổn định bằng cách gia cường các chốt hãm tạo bởi những định đề có từ quá khứ.

Dựa trên sự trỗi dậy của nguyên khí dân tộc trong tầm nhìn thời đại và ý thức trách nhiệm với tương lai.

Phong cách lãnh đạo

Sự vụ, đối phó, né tránh sự thật.

Khơi dậy sự phấn khích của toàn dân bằng hoài bão lớn, phẩm chất hiến dâng, sự trân trọng từng con người, và khả năng qui tụ hiền tài.

Văn hóa tổ chức

Mọi người, dù là có chức vụ cao đều thấy không có quyền lực.

Trong đáy lòng, thực tế không còn những giá trị thiêng liêng để tôn thờ. Ngậm miệng ăn tiền.

Hệ thống không ghi nhận đóng góp hay qui trách nhiệm cho cá nhân về mỗi nỗ lực thực hiện.

Ai ai cũng thấy trách nhiệm và khả năng đóng góp của mình vào sự nghiệp chung.

Mọi người đều chia sẻ những giá trị thiêng liêng gắn với tiền đồ và danh dự dân tộc

Vai trò cá nhân được đặc biệt coi trọng. Mỗi mặt trận đều có vị tướng lĩnh xuất chúng.

Vận hành của hệ thống

Thụ động, thúc thủ, thậm chí tê liệt (trên bảo dưới không nghe)

Có định hướng mạnh mẽ vào các mục tiêu chiến lươc; sáng tạo, cộng hưởng, và hợp tác gắn bó.

Hệ thống thông tin

Mập mờ, sai lệch, thậm chí bị ém nhẹm, giấu giếm

Minh bạch, chính xác, có hệ thống với chất lượng và khả năng tiếp cận ngày một nâng cao với sự phản hồi và đóng góp chặt chẽ của công dân.

Sử dụng nguồn lực

Phung phí, dàn trải.

Luôn cảm thấy thiếu hụt tài chính và nguồn lực vật chất; trong khi coi thường giá trị con người.

Vô thức trong việc lãng phí tài nguyên và vay nợ nước ngoài.

Tiết kiệm, chiến lược, và tập trung trong sử dụng nguồn lực.

Trọng dụng người tài để nguồn lực luôn đến dồi dào, sinh sôi và phát huy mạnh mẽ.

Chỉ dùng đến tài nguyên và nợ nước ngoài cho những mục tiêu đặc biệt chiến lược và tính thấu đáo mọi hậu quả của nó.

IV. Làm gì để vượt lên

Không ít bè bạn đã có thời tin rằng, Việt Nam là một dân tộc có tinh thần quật khởi và là một ứng viên làm nên những kỳ tích phát triển ở nửa đầu thế kỷ 21. Trong thế kỷ 21 này, động lực cho sự phát triển thần kỳ chỉ có thể có được nếu ba điều kiện sau hội đủ:

1- Toàn dân tộc đồng tâm trong khát vọng vươn lên sánh vai các dân tộc vẻ vang của thời đại.

2- Hiểm họa an ninh quốc gia ngày càng gay gắt.

3- Hệ thống chính trị nhận thức được lòng dân là ánh sáng mặt trời và văn minh nhân loại là qui luật của trời đất. Trong nhận thức đó, lãnh đạo phải là người có thể ngẩng cao đầu đón ánh mặt trời của lòng dân và lái con thuyền dân tộc vượt qua biển cả trong sự thuận hòa của qui luật trời đất.

Kinh nghiệm của Indonesia với thắng lợi vang dội của Tổng thống Yudhoyono trong cuộc bầu cử toàn dân đầu tháng 7 vừa rồi là điều đáng suy nghĩ. Ông được đánh giá là đã làm xuất sắc cương vị tổng thống trong 7 năm qua (2002-2009) với nỗ lực ấn tượng trong củng cố nền móng phát triển của Indonesia và chương trình chống tham nhũng với lời nói và hành động nhất quán và mạnh mẽ.

Cũng nhờ vậy mà trong mấy năm qua, Indonesia đã vượt lên từ sự sa sút sau sụp đổ của chính quyền độc tài Suharto và trở thành quốc gia tăng trưởng nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á trong những tháng đầu năm 2009. Cũng trong bối cảnh dân chủ sống động, ở Malaysia, Thủ tướng mới Najib nhận được sự đồng thuận cao của người dân (65% tín nhiệm) sau 100 ngày cầm quyền nhờ những cải cách đặc biệt ấn tượng.

Trong nỗ lực cải cách hệ thống ở Việt Nam, với xu thế tất yếu hướng tới một nền dân chủ do dân và vì dân, chúng ta trước hết cần đặc biệt chú ý áp dụng một số cải tiến kỹ thuật, tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa cực kỳ then chốt. Dưới đây là hai ví dụ nhỏ.

Ảnh minh họa: businessweek.com

1- Lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử

Trong bối cảnh không dễ dàng đổi thay một cơ chế hay một hệ tư duy, việc lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử có tác dụng quan trọng.

Bài học này có từ kinh nghiệm của Tổng thống Abraham Lincoln khi ông còn là một luật sư. Khi đó nước Mỹ có luật là người lớn không thể đòi khoản nợ mà người vị thành niên vay mình. Điều luật này lập tức bị nhiều nhiều thiếu niên lạm dụng: họ vay tiền rồi từ chối trả nợ. Nhiều chủ nợ cay đắng chấp nhận vì luật pháp không ủng hộ họ.

Trong tình thế này, luật sư Lincoln cũng không có cách nào khác để giúp thân chủ của mình đòi nợ ngoài việc đề nghị tòa án lưu giữ hồ sơ là cậu thiếu niên này đã quỵt nợ và ghi rõ cậu đó sẽ không bao giờ được coi là người lớn nếu không trả món nợ này. Lo sợ về đề xuất này được thực hiện, cậu thiếu niên này và gia đình đã vội vã xin trả món nợ và tình trạng quỵt nợ kiểu này từ đó không còn nữa.
 
Bài học này cho thấy, con người ta sẽ thường chỉ có hành vi lạm dụng khi trốn lủi được sự phán xét. Do đó, chúng ta đề nghị có đạo luật để Đảng, Quốc hội, Nhà nước, và Chính phủ phải lưu trữ thật tốt mọi luận bàn và quyết định quan trọng về chính sách phát triển và bổ nhiệm nhân sự để toàn xã hội được biết trong một thời hạn sớm nhất có thể. Khi đó, ai đề xuất hay quyết định những việc gì, dù tốt đẹp cho dân cho nước hay làm hại dân hại nước; dù đề bạt người hiền tài hay nâng đỡ kẻ tham nhũng sẽ đều được sự phán xét nghiêm minh của lịch sử.

2- Lựa chọn và đánh giá lãnh đạo dựa trên phân loại khoa học

Việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo và chủ chốt có ý nghĩa sống còn với công cuộc phát triển. Công việc hệ trọng này nên dựa trên một sự phân loại khoa học, có hệ thống. Tối thiểu cần dựa trên hai tiêu chí: Phẩm chất hiến dâng và Tư duy cải cách. Trên mỗi tiêu chí, cho điểm từ 1 đến 5 (1=rất thấp so với mức trung bình; 2=thấp hơn mức trung bình; 3=mức trung bình; 4=cao hơn mức trung bình; 5=vượt xa mức trung bình).

Để lựa chọn người cho một cuộc bầu cử chính thức, một tổ chức (dù là Đảng, Quốc hội, hay Chính phủ) nên có phân loại khoa học theo hai tiêu chí trên. Ví dụ: (i) Ban Chấp Hành Trung ương đánh giá về các ủy viên Bộ Chính trị hiện tại hoặc các ủy viên dự kiến cho khóa tới; (ii) Quốc hội đánh giá các bộ trưởng và các vị giữ trọng trách cao hơn.

Hình 2: Phân loại và đánh giá cán bộ chủ chốt

Click vào để xem hình lớn.

Tổng hợp đánh giá của cả tập thể về một cán bộ chủ chốt sẽ cho phép phân loại cán bộ theo hình vẽ 2 nêu trên.

Theo đó, chỉ người có mức điểm trung bình cao (nghĩa là trên 3,0) trên cả hai tiêu chí: “Phẩm chất hiến dâng” và “Tư duy cải cách” (ô I) mới được lựa chọn vào bầu cử cho các cương vị cao như ủy viên Bộ chính trị hay bộ trưởng và các vị trí cao hơn. Đảng và Quốc hội, nếu muốn có lòng tin của dân cần công khai các chỉ số này cho cán bộ chủ chốt ở cả Trung ương và địa phương.

Theo đánh giá của nhiều người, có nhiều cán bộ chủ chốt của ta ở ô III (có năng lực nhưng cơ hội, tham nhũng) và ở ô IV (vụ lợi cá nhân, bảo thủ). Điều đặc biệt đáng nói là cách đánh giá này không chỉ xác đáng còn tạo động lực để mỗi cán bộ đều tự rèn luyện và tốt hơn lên. Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là, tất cả những ai được đứng trong hàng ngũ lãnh đạo, thậm chí chỉ là cán bộ trong bộ máy nhà nước, đều phải ở ô I với độ tin cậy cao của toàn dân về phẩm chất hiến dâng và tư duy cải cách. 

V. Thay lời kết 

Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là làm gì để chúng ta không lùi tiếp nữa, bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.

Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị thế đẹp và nhiều tài nguyên quí quí giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ sống xênh xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân golf và dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày. Mỗi chúng ta, dù sao hãy cùng trả lời một câu hỏi day dứt: Dân tộc Việt Nam ta hôm nay có đủ lòng quả cảm “chặt cầu để tiến lên không?”

  • TS. Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore)


[1] Tổ chức New Economic Foundation vừa đưa ra xếp hạng chỉ số hạnh phúc năm 2009, trong đó Việt Nam xếp hạng 5. Điểm tốt của cách xếp hạng này là khuyến khích các nước tiêu dùng ít vật chất hơn. Điểm hạn chế là phương pháp dễ gây ngộ nhận cho các nước nghèo. Thứ nhất, họ dùng khảo sát mức độ hài lòng với cuộc sống thực hiện năm 2005 (nghĩa là 5 năm trước đây) và khảo sát này chủ yếu dựa vào một nhóm nhỏ người sống ở thành phố. Thứ hai, họ chia chỉ số hài lòng cho lượng vật chất tiêu dùng; nói một cách nôm na, chỉ số hài lòng của người Mỹ là 8 nhưng vì họ đi ô tô nên chỉ số hạnh phúc của họ thấp hơn Việt Nam với chỉ số hài lòng là 6,5 nhưng đi xe máy.

[2] “Japan-Vietnam Joint Statement: Toward a Strategic Partnership for Peace and Prosperity in Asia”; October 19, 2006; Ministry of Foreign Affair, Japan; URL: http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/vietnam/joint0610.html, xem ngày 11/07/2009.

[3] “Japan Suspends Aid to Vietnam, Citing Corruption”; URL: http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601080&sid=aTIhAZGLZ2Ko&refer=asia, xem ngày 11/07/2009

[4] Xem thêm Elgin, D. (1977), "Limits to the management of large complex systems", Assessment Of Future National and International Problem Areas, Stanford Research International, Palo Alto, CA.

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/7468/index.aspx
Đọc tiếp ...