Thứ Sáu, 26 tháng 3, 2010

Hai Bà Trưng

nhìn lại lịch sử: hai bà trưng         PDF        In        E-mail

Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay trải qua hàng ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch Mác Lê. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của kẻ thắng trận và thủ đoạn thâm độc quỉ quyệt đ khơng những dng mọi phương cách để đồng hóa Việt tộc bằng cách xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều đại Hán tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của một ngàn năm đô hộ của sự nô dịch văn hóa khiến ta chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một chút bận tâm. Thế nhưng… Lịch sử vẫn là lich sử của sự thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng của chân lý khch quan trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.

Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng sốt trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” khi trước đây nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây phương là của đế quốc Hy Lạp La M để rồi phải xác nhận đó chính là nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn minh của đại chủng Bách Việt. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại tồn bộ lịch sử Việt để phục hồi chân lý khách quan sự thật của lịch sử để xóa tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử. Nhân sắp đến ngày kỷ niệm Hai Bà, ngày giỗ của Hai Bà chúng ta cùng ngược dịng lịch sử trở về nửa thế kỷ đầu tiên của Dương lịch.

TỪ HUYỀN TÍCH “VUA BÀ” đến …
cái gọi là CỘT ĐỒNG MÃ VIỆN ..!

HAI BÀ TRƯNG KHỞI NGHĨA

Hán sử chép là năm 111 TDL, sau khi chiếm được Nam Viêt rồi thì Lộ Bác Đức phải nhờ “Việt Quế Lâm Giám Cư Ông dỗ (chiêu dụ) Au Lạc thuộc Hán”. Sở dĩ Hán Vũ Đế không dám tiến quân xuống Au Lạc vì lời khuyên của Lưu An nhắc lại kinh nghiệm thất bại năm xưa của Tần. Vì thế Lộ Bác Đức đóng quân ở Hợp Phố, chờ 2 viên Điền sứ của Triệu Đà dâng nộp ấn tín sổ sách và một ngàn vò rượu rồi giao cho 2 viên Điền sứ tiếp tục cai trị như xưa. Như vậy, Au Lạc vẫn hoàn toàn tự trị mặc dù trên giấy tờ, Hán triều đ đổi tên nước là Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận gồm:

1. Nam Hải (Quảng Đông).

2. Thương Ngô (Quảng Tây).

3. Uất Lâm (Quảng Tây)

4. Hợp Phố (Quảng Châu).

5. Giao Chỉ (Bắc Việt Nam)

6. Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá)

7. Nhật Nam (Nghệ An ).

8. Châu Nhai (Đảo Hải Nam).

9. Đạm Nhĩ (Nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam)

Trên thực tế, Hán triều vẫn không kiểm soát được lãnh thổ Nam Việt chứ đừng nói tới Au Lạc. Sau khi Thạch Đái chết, Hán Chiêu Đế cử Chu Chương làm thứ sử Giao Châu. Từ đó đến thời Đông Hán, sử sách TQ không nhắc gì đến Giao Chỉ cả.Thời Vương Mãng lật triều Tây Hán để lập triều đại Tân từ năm 9 đến 23, nhân lúc Hán triều suy yếu nhân dân Hoa Nam hoàn toàn giành quyền tự chủ. Hán sử chỉ chép vỏn vẹn là quan châu mục Giao Chỉ là Đặng Nhượng và các quận đều đóng bờ cõi tự phòng trị một thời gian. Năm 25, Lưu Tú lên ngôi lấy hiệu là Hán Quang Vũ, năm sau Hán triều cử Sầm Bành xuống đánh Kinh Châu. Sầm Bành viết thư cho Đặng Nhượng mãi tới năm 29 thì Giao Chỉ mục mới cử Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và thái thú các quận là nhóm Đỗ Mục mới sai sứ sang cống, tất cả đều được phong làm Liệt Hầu. “Hậu Hán thư” chép “Xưa Sầm Bành cùng Giao Chỉ mục Đặng Nhương quen biết thân thiện nên viết thư cho Nhượng trình bày uy đức quốc gia, rồi lại sai Thiên tướng quân Khuất Sung gửi hịch đến Giang Nam ban hành chiếu mạng. Do thế, Nhượng cùng Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Vũ Lăng là Vương Đường, ttướng Trường Sa là Hàng Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh Lăng là Điền Hấp, thái thú Thương Ngô Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cùng nhau sai sứ sang cống. Tất cả đều được phong là Liệt Hầu..”.

Hậu Hán thư, Mã Viện truyện của Phạm Việp sử gia triều Hán viết về Hai Bà Trưng như sau:“Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhị làm phản, đánh chiếm các quận (Chú:Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ người huyện Chu Diên tên là Thi (Sách) rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc, Trắc oán giận mà làm phản). Người man di các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp chiếm hơn sáu mươi thành ở Lĩnh Ngoại. Trắc tự lập làm vua. Bấy giờ vua (Hán) cho Viện làm Phục Ba Tướng quân, lấy Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân Đàn Chi đánh Giao Chỉ ở phương Nam. Quân đến Hợp Phố thì bị bệnh chết. Vua chiếu cho Mã Viện kiêm thống suất binh của Chí. Viện bèn dọc theo bờ biển mà tiến, theo núi phát đường hơn nghìn dặm. Năm 18, quân đến Lãng Bạc, đánh phá được giặc, chém hơn nghìn đầu, giặc đầu hàng đến hơn vạn người. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cẩm Khê, đánh thắng nhiều lần giặc tan chạy. Năm sau tháng giêng chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gửi đầu về Lạc Dương.(Chú: Việt chí nói rằng Trưng Trắc khởi binh, đóng đô ở huyện Mê Linh. Khi bị Mã Viện đánh chạy vào suối Kim Khê, 2 năm sau mới bắt được). Sách “Thuỷ Kinh Chú” của Lệ Đạo Nguyên lại chép là “Con trai Lạc Tướng Chu Diên là Thi (Sách) lấy con gái Lạc Tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trưng Trắc là người can đảm dũng lược, cùng chồng là Thi đánh phá các quận, thu phục được các Lạc Tướng. Trưng Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh, thu thuế được 2 năm của 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân ..”. Các sử gia nước ta cũng chép lại nguyên văn từ Hán sử. Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết:“Năm At Hợi, năm thứ 15 niên hiệu Kiến Vũ, thái thú Giao Chỉ là Tô Định là người tham lam bạo ngược. Trưng Nữ Vương nổi binh để đánh. Năm Canh Tý tháng 2 mùa Xuân, Ngài khổ vì Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc và thù Định giết chồng mình bèn cùng em là Trưng Nhị cử binh đánh lấy các châu trị ..”.(1)

Căn cứ vào các nguồn sử liệu của chính Hán tộc như Hậu Hán thư .. cho chúng ta thấy rằng Hán triều không kiểm soát được tình hình Hoa Nam. Cho tới năm 29, các quan châu mục lúc trước vẫn tự cai quản bây giờ mới sai sứ sang cống Hán triều, đặc biệt là Hậu Hán thư không nhắc gì tới thái thú Cửu Chân. Thực tế này có nghĩa là vùng đất Cửu Chân từ Vân Nam chạy dài xuống Thanh Nghệ vẫn chưa qui phục. Hán sử ghi rõ là mãi đến năm 29, Hán Quang Vũ mới cử Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. “Hậu Hán thư” chép:“Năm đầu hiệu Kiến Vũ, Nhâm Diên được triệu làm Thái thú Cửu Chân. Tục Cửu Chân không biết cày cấy, thường đong thóc ở Giao Chỉ và thường bị túng thiếu. Diên bèn sai đúc các đồ làm ruộng, dạy cho khai khẩn. Mỗi năm ruộng mở rộng thêm, trăm họ được no đủ. Dân Lạc Việt lại không có lễ phép cưới hỏi, không có giá thú, dâm háo, không rước đón mà vẫn đến với nhau. Không biết tình cha con, đạo vợ chồng. Diên bèn gửi thư đến các thuộc huyện, khiến trai từ 20 đến 50, gái từ 15 đến 40 đều lấy tuổi mình mà lấy nhau. Kẻ nghèo không có lễ rước thì ra lệnh cho trưởng lại trở xuống, mỗi người bớt bổng lộc để giúp đỡ họ. Lấy nhau cùng một lúc là hơn 2 ngàn người. Năm ấy mưa thuận gió hoà, lúa đậu được mùa. Họ sinh con mới biết dòng giống họ hàng, đều nói “ Khiến ta có con này là do Nhâm quân” nên phần nhiều đặt tên con là Nhâm. Do thế, mọi rợ ngoài biên Dạ Lang mộ nghĩa giữ ải. Diêm bèn ngưng bỏ do thám đóng quân..”.

Cứ theo nguyên văn đoạn này của Hậu Hán thư thì “mọi rợ ngoại biên Dạ Lang mộ nghĩa giữ ải” thì ta phải hiểu rằng đất Dạ Lang xưa của Việt tộc còn nằm ở vùng Quí Châu, Ba Thục. Dạ Lang phía Tây giáp Vân Nam, Đông giáp Giao Chỉ. Giao Chỉ thời kỳ này còn nằm ở mạn Nam sông Dương Tử. Dạ Lang là vùng đất đỏ nên sử sách gọi vùng này là Xích Qui phương. Quận Cửu Chân ở đây theo sử gia Đặng Xuân Bảng trong tác phẩm “Sử học Bị khảo” thời Tự Đức căn cứ vào sách Thuỷ Kinh Chú và Thái Bình Hoàn vũ ký thì “Ai Châu tức Cửu Chân, phía nam giáp quận Nhật Nam, phía Tây giáp quận Tường Kha, phía Bắc giáp Ba Thục, phía Đông giáp Uất Lâm”. Như vậy, Cửu Chân gồm một phần tỉnh Quảng Tây, một phần tỉnh Vân Nam dọc theo hoành sơn xuống miền Bắc đất Hưng Hoá cho đến Thanh Nghệ. Cổ sử chép về nước Việt Thường chính là Việt Thường Thị ngày trước định cư ở vùng đất này trải dài từ Vân Nam, Quảng Tây xuống tới vùng Thanh Nghệ. Chính vì vậy, Hậu Hán thư mới chép là Nhâm Diên ngưng việc do thám đóng quân vì mọi rợ ngoài biên “Dạ Lang” mộ nghĩa giữ ải là như thế. Một vấn đề nữa phải đặt ra là chính Hậu Hán thư hết lời ca ngợi công trạng của Nhâm Diên thì tại sao chỉ 3 năm sau, năm 32 Hán triều bãi chức thái thú của y rồi điều về làm huyện lệnh Thư Dương mà không thấy cử người nào thay thế chức thái thú Cửu Chân? Năm 34, Hán triều lại triệu hồi thái thú Giao Chỉ Tích Quang về triều. Điều này có nghĩa là nhân dân Cửu Chân và Giao Chỉ nổi lên, Hán triều không trấn áp được nên viên Thái Thú phải bỏ chạy mà Hán sử viết là do vua bãi chức hoặc triệu hồi về triều …

Thời kỳ Vương Mãng tình hình Trung Quốc hết sức rối loạn, Hoa Nam bất ổn do các thủ lĩnh Việt tộc nổi lên chiếm cứ mỗi người một phương. Thời kỳ này, Khôi hiệu xưng đế cử Mã Viện làm Tuy Đức tướng quân rồi Công Tôn Thuật người Việt xưng đế ở đất Ba Thục. Năm 32, Mã Viện bỏ Khôi Hiệu về theo Lưu Tú làm tham mưu giúp Tú đánh thắng Khôi Hiệu. Năm Kiến Vũ thứ 11 tức năm 34 là năm mà theo sử sách chép là Tô Định được cử làm Thái Thú Giao Chỉ thì Lưu Tú còn đem quân đánh Công Tôn Thuật, Tạng Cung đem quân lên đóng đồn Lạc Việt ở Trung Lô, Sầm Bành đem quân đánh chiếm Kinh Môn rồi tiến lên Phù Thành diệt Công Tôn Khôi. Lưu Tú cử Ngô Hán phối hợp với quân của Sầm Bành và Tạng Cung cùng tiến bức Thành Đô ở Tứ Xuyên. Tháng 11 năm 35, Công Tôn Thuật bị giết, quân Thục tan rã hoàn toàn.(2)

Hán sử cũng ghi rõ là năm 41, Mã Viện còn ra quân các quận hơn vạn người đánh diệt các cuộc khởi nghĩa của Duy Dĩ, Lý Quảng ở Hoãn Thành, Hồ Nam. Nhân đó, Lưu Tú phái viện làm Phục Ba tướng quân cùng Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó, Lâu thuyền tướng quân Đoàn Chí tiến đánh Hai Bà Trưng. Vấn đề đặt ra là ngay cả tình hình Hoa Nam còn chưa ổn định được khiến Hán Triều phải cử binh đánh dẹp thì làm sao có thể cử Nhâm Diên xuống tận Bắc Trung Việt làm Thái Thú được. Một sự kiện nữa là Hán Vũ Đế khi thôn tính Nam Việt theo lời khuyên của Lưu An đã không dám tiến quân xuống Au Lạc vì sợ sa lầy giống như quân Tần. Như vậy Au Lạc vẫn tự trị như xưa, các quận huyện vẫn do các Lạc Tướng và 2 viên Điển sứ cai trị. Thực tế trn chứng tỏ Hán triều chỉ có thể cử Nhâm Diên làm Thái Thú Cửu Chân trên danh nghĩa mà thôi. Địa danh Cửu Chân ở đây còn ở Vân Nam giáp Quí Châu nơi mà dẫy núi Đô Bàng thuộc đệ tam lĩnh của Ngũ Lĩnh ở đất Cửu Chân, núi Phục Ngưu sơn đổ về Thập vạn đại sơn, Dẫn sơn. Chính vì vậy, Hán sử chép công trạng của Nhâm Diên có nói tới việc vỗ về phủ dụ Man di nên mọi Dạ Lang ngoại biên mộ nghĩa giữ ải, Diên bỏ do thám đóng quân…Dạ Lang ở Quý Châu giáp ranh với Việt Nam, Quảng Tây TQ bây giờ. Cũng thế, Giao Chỉ mà Tích Quang làm Thái Thú theo Hán sử từ năm thứ 2 SDL còn ở Hoa Nam nên Hậu Hán Thư mới viết nhờ công của Tích Quang và Nhâm Diên mà dân Lĩnh Nam mới theo phong tục Trung Hoa từ đấy. Lĩnh Nam là miền Nam rặng Ngũ Lĩnh tức vùng Hoa Nam (Nam Trung Hoa) chứ nếu sự việc chỉ xảy ra ở Bắc Việt Nam như các sử gia Việt Nam hiểu từ trước đến giờ thì Hậu Hán Thư không chp tn Lĩnh Nam ở tận Hoa Nam làm gì.

Như vậy, trên thực tế Nhâm Diên chỉ đóng ở phủ trị rồi huênh hoang tâng bốc công trạng của y như học giả Lê Mạnh Thát trong “Lục Độ Tập kinh và truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc ta” đã nhận định:“Những thông tin về Nhâm Diên và Tích Quang không gì hơn là do hư cấu. Nếu không phải của Phạm Việp (398-445) thì cũng có thể của những tiền bối của Việp như Tạ Thừa, Hoa Kiều, Tạ Trầm, Viên Hoằng … Tính chất hư cấu càng rõ ràng khi ta đặt chúng nằm bên cạnh việc “Điều tấu” Việt luật của Mã Viện… thì dân ta vào thượng bán thế kỷ thứ nhất nếu cịn sống như cầm thú thì lm sao có được bộ luật mà chúng gọi là Việt luật sánh ngang với Hán luật được. Chỉ riêng việc Trưng Trắc đứng lên lãnh đạo phong trào toàn dân kháng chiến trước là để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng, sau là để trả thù chồng đã nói lên cái đạo lý chồng tín vợ trinh của người Việt mà Hán tộc không thể có được Sự kiện Mã Viện vừa đánh thắng Hai Bà Trưng đã phải bắt tay vào việc điều tấu Việt luật có mười điểm khác biệt với Hán luật, tất cả sự kiện ấy là một điểm chỉ khá chính xác về tình trạng độc lập của nước ta cho đến thời Hai bà Trưng”. Luận điệu miệt thị bôi bác sặc mùi Đại Hán của các tên Thái thú không thuyết phục được ai vì chính Hán Hiến Đế (190-220) đã tuyên xưng Giao Chỉ như sau:“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”. Thậm chí bộ Đại Việt Sử lược không rõ tên tác giả viết vào khoảng đời Trần, dù bị Tiền Hy Tộ sử quan triều Thanh sửa đổi nhưng vẫn không thấy chép gì về Nhâm Diên và Tích Quang. Đại Việt Sử lược chép “Quan thủ nhậm qua các thời đại” chỉ ghi “Thạch Đái thời Vũ Đế (140-86 TDL), Chu Chương đời Chiêu Đế (86-74 TDL0, Nguỵ Lãng Tư Minh đời Tuyên Đế (73-48 TDL) rồi tới Tô Định đời Hán Quang Vũ (25 TDL-40)”. Như vậy rõ ràng là thời kỳ này, ở phần đất Bắc và Trung Việt Nam tuy sử sách gọi là thuộc quận Giao Chỉ và Cửu Chân không có viên thái thú nào trấn nhậm cả. Trên thực tế nếu Hán triều có cử Tích Quang, Nhâm Diên làm thái thú thì chỉ ở Giao Chỉ bộ và Cửu Chân ở Vân Nam mà thôi. Mặt khác trong khi “Hậu Hán thư” chép là Hán Quang Vũ hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa thuyền xe, sửa chữa cầu đường, thông miền khe núi, tích trữ lúa gạo từ những năm 40-41 thì thời gian này, Mã Viện còn lo đánh Duy Dĩ ở Hồ Nam và Lý Quảng ở Hoãn Thành tỉnh An Huy TQ bây giờ. Mãi đến năm 42, Mã Viện mới được phong là Phục Ba tướng quân đem hơn vạn quân các quận tiến đánh Hai Bà Trưng. Lịch sử chép rằng trong vòng 1 tháng, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm 65 thành trì khắp 6 quận miền Hoa Nam bao gồm Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải thì làmsao có thể huy động được quân của các vùng này như Hậu Hán thư đã chép. Nếu có thì chỉ huy động được hơn một vạn quân sau khi thắng Lý Quảng ở Hoãn Thành An Huy và Duy Dĩ ở Hồ Nam để đánh Hai bà ở Trường Sa và vùng hồ Động Đình mà thôi.

Sử sch chp rằng nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nhất tề hưởng ứng Hai Bà Trưng nên chỉ trong 1 tháng Hai Bà đã đánh chiếm 65 thành trì dễ như trở bàn tay. Căn cứ vào Quận quốc chí của Hậu Hán thư thì Nam Hải có 7 thành, Thương Ngô 11 thành, Uất Lâm 11 thành, Hợp Phố 5 thành, Giao Chỉ 12 thành, Cửu Chân 5 thành, Nhật Nam 5 thành, như vậy là 53 thành. Nếu công với 12 thành ở Dương Châu và Kinh châu mới đủ 65 thành mới đúng với con số thành mà Hai Bà Trưng đã chiếm được.(3) Như vậy, cuộc chiến đã diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc bao gồm các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Linh Châu và Dương Châu. Sự kiện này đã được thông sử dân gian Việt qua thực tế lịch sử. Nhân dân Hoa Nam cho đến nay vẫn tôn thờ sùng kính Hai Bà Trưng mà họ gọi một cách thân thương là vua Bà. Sự tôn sùng thờ kính vua Bà đã trở thành một tôn giáo dân gian gọi là đạo “Thờ Vua Bà”. Nhân dân khắp các tỉnh Hoa Nam từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam có trên một trăm đền thờ, miếu thờ vua Bà và những nữ tướng của Hai Bà.

Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sĩ thì dn gian Hoa Nam tương truyền rằng trận đánh đầu tiên của Trưng Nhị cùng các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Trần Thiếu Lan, Lại thế Cường đánh Trường Sa vào đầu năm Kỷ Hợi tức năm 39. Trong trận đánh này, Nữ tướng Trần Thiếu Lan đã hi sinh được quân dân mai táng ở ghềnh sông Thẩm Giang. Thẩm Giang là một đạn sông ngắn ở phía Bắc tiếp nối với hồ Động Đình. Sự kiện này còn ghi trong “Địa phương chí” của sở du lịch Trường sa ngày nay như sau:“Miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan” ở đầu sông Tương. “Quốc phổ thời Nguyễn” cũng chép rằng các sứ thần nước ta từ các triều Lý, Trần, Lê .. khi đi ngang qua đây đều sắm lễ vật đến cung miếu thờ vị liệt nữ anh hùng dân tộc Trần Thiếu Lan. Trong đền có đôi câu đối :

“ Tích trù Động Đình uy trấn Hán,

Phương lưu thanh sử lực phù Trưng ..”

Động Đình chiến sử danh trấn Hán,

Sử xanh ghi mãi sức phù Trưng ..!

Khi Mã Viện huy động đại quân tiến đánh quân ta, Hai Bà giao cho 3 vị tướng họ Đào là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang có nhiệm vụ trấn giữ Tượng quận là vùng đất ở giữa Vân Nam và Quảng Tây. Quân số ít oi, ba vị tướng họ Đào đã tử thủ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhân dân địa phương trân trọng lập đền thờ bên trong có đôi câu đối :

“ Tượng quận giương uy nhiêu tướng lược,

Bồ Lăng tuẫn tiết … tận thần trung .. (4)

Thế mà các nhà viết sử của nước ta cứ sao y bản chánh Hán sử chép rằng Bồ Lăng nay là bến Bồ Đề ở ngoại ô thành Thăng Long. Họ cứ nhắm mắt tin vào cái gọi là “chính sử” mà quên đi một điều là các sử gia Hán đã cố tình bóp méo sự thật, lấy tên cũ đặt cho vùng đất mới để xoá nhoà dấu vết của địa danh xưa cũ thời Văn Lang còn trải rộng khắp Hoa Nam. Trong khi đó “Việt chí” và “ Thiên Nam Ngữ lục” là thiên trường ca lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời hậu Trần gồm 8.136 câu viết theo thể lục bát chép rằng:“Hai Bà Trưng sau khi đánh chiếm được 65 thành thì bị đại quân của Mã Viện tiến đánh. Hai Bà chống cự không nổi phải rút lui dần..”. Hai Bà không bị Mã Viện chém đầu mang về Lạc Dương như Hậu Hán thư chép và Hai Bà cũng không nhảy xuống tuẫn tiết trên dòng sông Hát mà Hai Bà vẫn tiếp tục chiến đấu như trong “Mã Viện truyện” chép lại. Tương truyền Hai Bà xây thành giống tổ kén nên gọi là Kiển thành ở vùng Tư Minh thuộc Vân Nam Trung Quốc bây giờ.

Sự kiện này đã được Lệ Đạo Nguyên xác nhận trong tác phẩm “Thuỷ Kinh chú” là đến năm 42, Mã Viện tâu trình kế hoạch tiến quân đánh Hai Bà ở Vân Nam như sau:“Năm Kiến Vũ thứ 19 tức năm 42, Phục Ba tướng quân là Mã Viện tâu ln vua rằng: Đi từ Mê Linh ra Bôn Cổ huyện Thuý tỉnh Vân Nam để đánh Ích Châu, thần sẽ đem hơn vạn người Lạc Việt, trong đó có hơn 3 nghìn người từng theo Viện chiến đấu có mang tên tẩm thuốc độc, bắn một lần mấy phát, tên bắn như mưa trúng ai nấy chết ..”. Sách Thuỷ Kinh chú chép về địa danh Mê Linh rõ hơn “Huyện Tiến Tang là Đô uý trị ở miền Nam quận Tường Kha. Trên sông có cửa quan nên gọi là cửa Tiến Tang. Mã Viện xưa nói rằng “ Theo đường sông Mê Linh ra vương quốc Tiến Tang, đến huyện Bí (Bôn) Cổ thuộc Ích Châu, chuyên chở thuận lợi nên đường binh xa chuyên chở là do đó ..”. Như vậy rõ ràng là sông Mê Linh nằm ở miền Nam huyện Tường Kha tỉnh Hồ Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như các sử gia vẫn chép từ trước đến giờ. Sự kiện này một lần nữa xác nhận Mê Linh lúc đó là địa danh ở Trường Sa, Tây hồ tỉnh Hồ Nam TQ. Đất Mê Linh lúc trước gọi là My Linh thuộc nước Sở, về sau là vùng Trường sa, Phan Hồ tỉnh Hồ Nam, nơi mà Hán Vũ Đế mở Đô Uý trị ở đó năm Nguyên Đĩnh thứ 6 tức năm 111 TDL sau khi đánh thắng Nam Việt.

Sau khi bị Hán tộc xâm lược đẩy lùi dân tộc ta về phương Nam, tiền nhân ta đã mang theo tên Mê Linh, Tây hồ xa xưa để đặt tên cho vùng đất mới ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú. Địa danh Phan Hồ còn gọi là Tây Hồ ở vùng Ô Diên tỉnh Hồ Nam thuộc Giang Nam tức phía Nam sông Dương Tử là vùng núi có hình con chim Điêu, chim Ó sau đổi thành Chu Diên, quê hương của Thi (Sách) chính là vùng Hai Bà đã đóng quân chống quân Hán xâm lược. Phan Hồ còn gọi là hồ Tây hay hồ Dâm Đàm là một trong 5 hồ rộng lớn ở Giang Nam, sóng nước mênh mông nên còn gọi là hồ Lãng Bạc. Mùa hè năm 43, Mã Viện hành quân đến Lãng Bạc mà theo Thuỷ Kinh chú thì:“Ở phía Bắc huyện Phong Khê có con sông chảy về phía Đông qua Lãng Bạc. Mã Viện cho đó là đất cao bèn từ Tây Lý đem quân đến đóng ở đấy. Sông ấy lại chảy về phía Đông qua phía Nam thành cũ huyện Long Uyên ..”.

Sử gia Đào Duy Anh cũng như các nhà sử học CHXHCNVN nhất loạt gán ghép một cách vô lý đó là con sông Thiếp. Tây Lý là Tây Vu vì chữ Vu bị chép lầm thành chữ Lý! Để cho rằng Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du ở Bắc Ninh bây giờ. Thuỷ Kinh chú còn mập mờ viết rằng con sông này còn gọi là sông Nam. Thực ra đó chính là sông Việt (Việt giang) mà sau này Hán sử cố tình chép đổi lại là Tây giang gồm 2 nhánh Tả giang và Hữu giang bắt nguồn từ Uất Lâm phía Bắc Quảng Tây chảy xuống Đông Nam ra thành cũ huyện Long Uyên ở Quảng Đông. “Lĩnh Nam Trích quái” chép:“Hai Bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị người ở huyện Mê Linh đất Phong Châu, con gái quan Hùng tướng đất Giao Châu” thì ta phải hiểu Mê Linh ở Trường sa và đất Phong Châu đây là Phong Châu Thượng ở giữa Vân Nam và Quí Châu chứ không phải Phong Châu Hạ ở Bạch Hạc, Việt Trì Bắc Việt sau này do triều Đường mới đặt tên năm 622. Sách “Cựu Đường thư” của Lưu Hú chép:“Phong Châu ở Tây Bắc An Nam, Sở trị là Gia Ninh. Đời Hán, huyện Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ là đất của Văn Lang Di xưa”. Cựu Đường thư đã ghi rõ là Phong Châu ở hướng Tây Bắc An Nam chứ không phải ở vùng Tây Bắc của nước An Nam. Sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường chép:“Phong Châu là đất Văn Lang xưa, có con sông tên là Văn Lang”. Sách Thuỷ Kinh chú dẫn sách “Lâm Ap ký” chép:“Phía Nam Chu Ngô có giống người gọi là Văn Lang. Họ không biết xây nhà mà ở trên cây (ở nhà sàn), ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Phía Nam huyện đó có con sông nhỏ tên là Văn Lang cứu ..”. Mãi đến đời Thái Khang triều Tuỳ mới đổi Giao Chỉ thành Giao Châu. Phong Châu trước là quận Tân Xương, sau đổi là Hưng Châu. Đời Khai Hoàng đổi lại là Phong Châu, đến năm Đại Nghiệp thứ 3 gồm Phong Châu vào Giao Châu gọi là quận Giao Chỉ. Như vậy tên Phong Châu này là Phong Châu Hạ mà đời Tuỳ là huyện Gia Ninh. Mãi đến năm Vũ Đức thứ tư đời Đường tức năm 622 mới chính thức lập Phong Châu gồm 6 huyện.

Mặt khác,“Thần phả” xã Tiên Lát, huyện Việt Yên tỉnh Hà Bắc ghi rõ là đến đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương huý Đức quân Lang mới dời đô xuống Việt Trì Phong Châu. Sách Lĩnh Nam Trích quái chép truyện thánh Tản Viên cũng chép là vào thời Chu Noãn Vương (314-255 TDL) thì vua Hùng thứ 18 mới đến ở đất Việt Trì, châu Phong lấy quốc hiệu là Văn Lang. Theo Thông sử dân gian được chép trong “Thiên Nam Ngữ lục” thì Hai Bà Trưng rút xuống vùng Vân Nam và lập căn cứ ở nước Nam Chiếu. Về sau Hai Bà bệnh mà chết. Con cháu và các Lạc Hầu Lạc Tướng dẫn dân quân lui xuống phương Nam tiếp tục mở đất từ Tứ Xuyên xuống Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ rồi tràn xuống phương Nam dọc theo dãy Trường Sơn thành lập các vương quốc Champa và Phù Nam sau này. Cũng theo thông sử dân gian thì sau khi quốc gia Nam Việt mất vào tay Hán tộc, con cháu họ Triệu và quân dân Nam Việt theo đường biển từ La Phù, Hợp Phố về tới Đồ Sơn. Tiếng địa phương của chi Au Việt gọi vua là “Chiếu” nên Nam Chiếu có thể hiểu là vua nước Nam. Họ xưng là dân nước Nam Chiếu nên thực hiện chiếu chỉ của vua Nam chống Hán tộc, trong trận thuỷ chiến họ đã giết được viên Thú lệnh của Hán triều. Một số khác trôi dạt ra đảo Hải Nam mà sử sách xưa chép là Hán triều chia ra làm 2 quận Chu Nhai và Đạm Nhĩ. Theo các công trình nghiên cứu thì dân địa phương trên đảo là người Việt cổ chi tộc Lê nên gọi là Lạc Lê, ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng. Chính vì thế mà quân dân Nam Việt dễ dàng hội nhập vì cùng một nguồn cội. Họ cùng nhau tiếp tục kháng chiến chống quân Hán xâm lược nên năm 81 TDL, Hán triều phải bỏ Đạm Nhĩ rồi đến năm 46 TDL, Hán triều lại phải bỏ Chu Nhai vì chịu thiệt hại nặng nề. Hán sử chép lại sự kiện phải bỏ đảo Hải Nam bằng cách bao biện cho việc rút quân của chúng một cách khôi hài láo xược như sau:“Giả Quyên Chi tâu lên vua xin bỏ cuộc chinh phục vì dân Lạc Việt ở Chu Nhai vốn còn man rợ, không khác loài cầm thú, cha con tắm cùng sông, quen uống nước bằng mũi nên không đáng để đặt đất này thành quận huyện ..!. (5)

Từ trước tới nay, chúng ta cứ dựa vào Hán sử mà cho rằng Tô Định là tên thái thú tham lam tàn bạo nên Hai Bà Trưng mới đứng lên chống lại. Đây chính là luận điểm của Hán tộc cho rằng chỉ vì thái thú tham lam tàn bạo nên người Việt mới đứng lên chống lại sự đô hộ mà thôi. Vì vậy, sử sách Hán hết lời ca tụng các viên Thi thú như Giả Tôn trong Đại Việt Sử lược đã bị Tiền Hy Tộ sửa đổi như sau: “Đời Linh Đế nhà Đông Hán 184, người trong châu họp bính đánh Thứ sử. Vua Linh Đế dùng Giả Tôn làm thứ sử. Giả Tôn đến vỗ về hoà hợp được lòng người, cõi Giao Châu trở về yên ổn. Trăm họ ca ngợi rằng : Cha Giả đến muộn màng, khiến ta trước đánh càn. Thanh bình nay đã thấy, nào dám phản cho đang !?” Thực ra có tên thái thú nào mà chẳng tàn bạo tham lam bóc lột dân ta. Hán sử cũng chép là ngay sau khi thôn tính Nam Việt, Hán triều đã chia thành 9 quận để dễ bề thống trị. Thế nhưng việc đặt quận huyện chỉ là trên hình thức, cho dù chúng có bổ nhiệm các tên Thứ sử, thái thú thì cũng chỉ ở nơi đóng quân quanh phủ trị mà thôi. Ngay từ năm 32, Hán triều đã phải bãi chức thái thú Cửu Chân của Nhâm Diên. Hai năm sau lại triệu hồi thái thú Giao Chỉ Tích Quang về rồi cử Tô Định là tên võ quan làm thái thú để đem quân đi đánh chiếm lại những vùng đã thuộc quyền tự chủ của dân ta. Theo thông sử thì năm 39, chính Trưng Nhị cùng các nữ tướng đã chặn đánh tan tành quân Hán ở Trường Sa. Hán sử chép là Tô Định tháo chạy, còn các quan chức thứ sử thái thú chỉ giữ được mạng sống của chúng mà thôi. Sách “ An Nam Chí lược” và “ Thiên Nam Ngữ lục” chép Tô Định bị giết chết tại trận. Hán Đế phải cử Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân là chức cũ của Lộ Bác Đức thời Hán Vũ Đế đánh Nam Việt. Điều này có nghĩa là nhân dân Nam Việt đã làm chủ lãnh thổ nên phải cử Mã Viện tiến đánh Nam Việt như Phục Ba Tướng quân thuở trước.

Nhân lúc Hán triều suy yếu, thủ lĩnh các địa phương lãnh đạo quần chúng đứng lên giành lại độc lập tự chủ rồi lần lượt xưng vương. Tình hình Hoa Nam hết sức rối ren, hết Khôi Hiệu rồi Công Tôn Thuật chiếm cứ Ba Thục, Lý Quảng chiếm giữ Hoãn Thành tỉnh An Huy, Duy Dĩ chiếm Hồ Nam rồi Sở Lê Vương … tạo thành một cao trào giải phóng dân tộc. Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh thuộc hàng danh gia vọng tộc nên nuôi dưỡng hoài bão “Nối lại nghiệp xưa vua Hùng”. Trưng Trắc lấy chồng tn l Thi (Sách) danh sĩ đất Giao Châu cùng chí hướng, con trai của Lạc tướng Chu Diên là người có chí khí hơn người. Việc liên kết hai dòng họ không qua mắt được quân thù nên khi Tô Định đem quân Hán xâm lược tới phủ trị thì chúng cho quân đến vây bắt hai vợ chồng Trưng Trắc. Thiên Nam Ngữ lục chép: “Khi thấy quân Tô Định thế mạnh, Thi (Sách) khuyên vợ nên đi đường tắt về Hát Môn. Nhân đấy hai chị em kéo về Hát Môn, lập thành luỹ chuẩn bị dụng binh. Thế cô nên Thi (Sách) không chống cự nổi bị Tô Định giết chết, đốt phá dinh thự. Tin dữ truyền đến Hát Môn, chị em Trưng Trắc quyết chí báo thù, truyền hịch đi khắp thiên hạ dấy nghĩa ..”. Năm 39, Hai Bà Trưng đem quân đánh tan quân Hán ở Đô Uý trị huyện Mê Linh thuộc Trường Sa, giết chết Tô Định. Đây là chiến thắng vang dội mở đầu cho các chiến thắng liên tiếp trên các quận huyện. Trong vòng hơn 1 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì trên khắp Hoa Nam. Quân Hán cuốn vó chạy dài, Hán triều thất điên bát đảo. Nhân dân suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua, lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Trưng Nữ Vương cảm thông nỗi khốn khó của nhân dân nên ban hành chiếu chỉ miễn thuế cho nhân dân 2 năm liền. Sách Thuỷ Kinh chú của Lệ Đạo Nguyên chép:“Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục được các Lạc Tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua”.

“ Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta..”. (6)

Sau 3 năm ráo riết chuẩn bị, Hán triều cử Mã Viện đem đại quân tiến đánh Hai bà. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt trên toàn cõi Hoa Nam. Trận chiến cam go ác liệt nhất xảy ra ở vùng Lãng Bạc khi Hai Bà đem quân tấn công quân Hán năm 43, Mã Viện phải rút quân lên vùng đất cao để đóng quân cố thủ. Quân Hán không thích hợp với khí hậu mùa hè phương Nam nên bị dịch bệnh chết nhiều. Tướng giặc Bình Lạc Hầu Hàn Vũ bị bệnh chết, quân sĩ hoang mang dao động. Sợ lâm vào tình thế nguy ngập, Mã Viện lợi dụng quân số đông, lại có thuỷ bộ phối hợp nên y dốc toàn lực liều chết phá vòng vây khiến quân ta bị tổn thất nặng. Hai Bà Trưng phải rút về Cẩm Khê huyện Mê Linh để bảo toàn lực lượng. Trong suốt 2 năm, Mã Viện nhiều lần tấn công nhưng đều thất bại. Cuối cùng theo Hậu Hán thư thì “Mã Viện đem quân đuổi theo Trưng Trắc đến Cẩm Khê, hai bên giao chiến nhiều lần. Quân Hai bà bị thua, Mã Viện giết được Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về kinh đô Lạc Dương”.

Sự kiện trên phải xét lại vì không những mâu thuẫn với Thông sử dân gian mà còn mâu thuẫn ngay với truyện Lưu Long trong Hậu hán thư. Truyện Lưu Long, phó soái của Mã Viện lại chép rằng Lưu Long đánh đuổi nghĩa quân đến Cẩm Khê, bắt được Trưng Nhị, chém giết hơn ngàn người, bắt đầu hàng hơn vạn người mà không nói gì đến Trưng Trắc. Hậu Hán thư chép tiếp: “ Tháng 11 năm 43, Viện đem lâu thuyền lớn nhỏ hơn 2 ngàn chiếc, chiến sĩ hơn 2 vạn người đánh giặc Đô Dương ở Cửu Chân là dư đảng của Trưng Trắc từ Vô Công đến Cư Phong, chém bắt hơn 5 ngàn người. Lĩnh Nam đều bình định. Viện tâu lên vua rằng Tây Vu có hơn 3 vạn 2 ngàn hộ, vùng xa cách huyện đình hơn ngàn dặm, xin chia làm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua đồng ý, chỗ Viện đi qua liền vì quận huyện dựng thành quách, đục ngòi tưới tắm để lợi cho dân … Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc … Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân. Năm thứ 20 tức năm 44, mùa Thu, Viện thu quân rút về kinh đô. Quân lính trải qua chướng dịch, mười người chết hết bốn, năm…”. Trận đánh diễn ra ác liệt, tướng Đô Dương tử trận. Mã Viện bắt hơn 300 Cừ Soái giải về Linh Lăng. Các thủ lĩnh còn lại biết không chống nổi trước thế giặc hung hãn nên rút dần về phương Nam để tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Hán xâm lược. Hậu Hán thư chép như thế trong khi Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn lại chép là:“Trưng Trắc chạy vào miền trong thác Kim Khê, hai năm sau mới bắt được ..”. Sách “Việt Chí” cũng chép là Kim Khê ở phía Tây Nam huyện Mê Linh, như vậy thuộc Trường Sa, Hồ Nam TQ trong khi sách Thuỷ Kinh chú lại chép là Cấm Khê. Thần tích làng Hạ Lôi ở Cẩm Khê Mê Linh chép là Bà Trưng Nhị tử trận còn Trưng Trắc chạy lên núi My Sơn rồi hoá. Theo thông sử dân gian truyền tụng đ thnh hĩa hai B thì ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão tức năm 43, sau khi dốc toàn lực quyết chiến với quân thù, hai Bà sức cùng lực tận đã gieo mình xuống dòng sông Hát (Hát Giang) tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết của bậc anh thư nước Việt :

“ Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,

Chị em thất thế phải liều với sông ..!”

Sách “ Thái Bình Hoàn vũ ký” gọi sông Hát là sông Chu Diên. “Dư Địa chí” của Nguyễn Trãi cũng chép:“Ở sông Hát có cá Anh Vũ bơi lội tới sông Giang Hán (Dương Tử giang và Hán thuỷ) vì cây Chiên Đàn ở sông Hát cao cả nghìn trượng, rễ lâu năm, gốc dài bám liền tới sông Trương Giang (Dương Tử giang) và sông Hán. Cá Anh Vũ bơi lội thông thương trong hốc đất vì thế ở Hoàng Hạc Lâu có Anh Vũ châu ..”. Như vậy, sông Hát ở đây là ở hạ lưu sông Dương Tử khác với sông Hát sau này ở Bắc Việt nay là Ngã ba Hạc, mà theo tương truyền cá Anh Vũ cũng có tại Hoa Lư là gốc rễ Chiên Đàn nói trong truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Trích quái.

Mã Viện không chỉ là một danh tướng Hán chuyên đem quân đi xâm lược để bành trướng đế chế Đại Hán, mà y còn là tên quan thống trị hết sức thâm độc. Để dập tắt mầm mống chống đối, Mã Viện đã vô hiệu hoá mọi phương tiện truyền đạt hiệu lệnh khởi nghĩa của các Lạc Hầu Lạc Tướng Việt, đồng thời triệt tiêu trống đồng vật biểu trưng cho nền văn minh Việt và cũng là biểu tượng quyền uy của giới lãnh đạo thời Hùng Vương. Mã Viện ra lệnh tịch thu tất cả trống đồng của Lạc Việt để đúc “ngựa thép” để dâng lên vua Hán. Sách “ Hậu Hán thư” chép: “Viện ưa cưỡi ngựa hay có tiếng nên khi ở Giao Chỉ, lấy được trống đồng Lạc Việt bèn đúc ngựa thép về dâng vua”. Vấn đề không đơn giản như Hậu Hán thư chép vì trống đồng không chỉ là nhạc cụ truyền thống dùng trong các lễ hội mà trống đồng còn là biểu tượng quyền uy tuyệt đối của các Lạc Hầu, Lạc Tướng thủ lĩnh quân trưởng của địa phương nữa. Tiếng trống đồng là hiệu lệnh tập hợp của các thủ lĩnh Quân trưởng Việt “ Mỗi khi nghe tiếng trống, người người kéo đến như mây ..”. Chính vì vậy, việc làm của Mã Viện là chủ trương trước sau như một của đế chế Đại Hán bành trướng từ Mã Viện đời Hán đến Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Au Dương Nguỷ đời Lục triều và Lưu Hiển đời Minh … Tất cả bọn chúng đều tìm cách tịch thu phá huỷ trống đồng Việt cổ ở những nơi chúng chiếm đóng trên lãnh thổ nước ta.

Bốn năm sau khi Hai Bà mất, Mã Viện vẫn không dập tắt được phong trào kháng chiến của nhân dân ta trên khắp đất nước. Quân Hán phải co cụm lại, xây dựng những thành luỹ phòng thủ như thành Kiển Giang còn gọi là Kiển Thành. Kiển thành có hình dáng giống như cái tằm ở Châu On Lạng Sơn. Ngoài phạm vi thành là vùng tự trị của các Lạc Hầu, Lạc Tướng mà quân Hán không kiểm soát được nên Mã Viện đành phải:“ .. Bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Lạc Việt vâng làm việc như cũ của Mã tướng quân” như Hậu Hán thư chép. Trước tình trạng quân Hán ngày một chết nhiều vì thương vong và dịch bệnh khiến giặc bị tiêu hao thiệt hại nặng nề nên Mã Viện nại cớ “thuỷ thổ Giao Chỉ hơi độc bốc lên đến nỗi chim đang bay trên trời cũng phải rũ cánh sa xuống đất mà chết ..” để rút quân về. Nhận được sớ của Mã Viện, năm 44 vua Hán hạ chiếu cho Viện rút quân về. Trước khi về nước, Mã Viện cho dựng một cột trụ bằng đồng làm ranh giới cuối cùng Hán Việt. Trên trụ đồng, Mã Viện cho khắc 6 chữ “ Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” như để răn đe là nếu cột trụ đổ thì Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt.

Thư tịch cổ TQ chép về “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” không rõ ràng. Nếu trụ đồng có thật ở phía Nam quận Giao Chỉ thì sách sử phải ghi chép rõ ràng và phải còn lưu lại vết tích. Một loạt sách sử Trung Quốc chép gần giống nhau như sách “ Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường viết:“Phía Nam Lâm Ap đường thuỷ đường bộ qua 2 nghìn dặm đến Tây Đồ Di là nơi Mã Viện đặt đồng trụ để nêu bờ cõi ..”. Sách “Tân Đường thư” cũng chép:“Lâm Ap có châu Bôn Đà Lăng. Bãi lớn phía Nam có 5 đồng trụ do Mã Viện đời Hán trồng. Hình núi như chiếc tàn nghiêng. Phía Tây là là mấy trùng núi, phía Đông là biển cả”. Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” chép:“Mã Viện đánh Lâm Ap. Từ Nhật Nam đi hơn bốn trăm dặm có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy lập 2 đồng trụ ở chỗ biên giới Tượng Lâm giáp với Tây Đồ Di. Đường thuỷ thì đi từ Nam Hải hơn 3 nghìn dặm tới Lâm Ap, năm nghìn dặm tới đồng trụ của Giao Châu”. Dã sử thì nói rằng Phù An có sông Đà, sông Diễn. Phía Nam có bãi lớn. Phía Tây có núi Thạch Bi chu vi chừng 10 dặm. Phía Tây liền vói dãy núi lớn, núi non trùng điệp. Phía Đông dòm xuống biển. Trên đỉnh núi, một tảng đá một mình đứng cao chót vót … Theo các sách “Thông Điển”, “Đường chí” .. thì đồng trụ có lẽ ở đấy. Thế nhưng trên đĩnh núi ấy, một tảng đá cao đến 10 trượng, rộng 6,7 trượng. Dân ở gần núi cho rằng tảng đá đó là ngọn núi do trời sinh chứ không phải do con người dựng lên. Vì vậy sách “Thuỷ Kinh chú” cho là “Núi sông dời đổi. Đồng trụ đã chìm vào sông biển ..!”.

Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Vân Đài Loại ngữ” đã viết:“Gọi là phân mao cỏ rẽ vì núi cỏ mọc rẽ làm hai, phía Tây Phân Mao lĩnh là Khâm Châu (Trung Quốc), lưng chừng có cột đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ là cột đồng do Mã Thống đời Đường dựng mà tương truyền đây là cột trụ đồng của Mã Viện”. Sở dĩ Lê Quí Đôn viết có lẽ là vì sách sử đã bị giặc Tàu đốt phá hết nên không còn căn cứ, vả lại nhà bác học chắc chắn đã đọc các sách sử Tàu nói về cột đồng rồi nhưng ông vẫn đặt bút viết theo tương truyền đây là cột đồng do Mã Viện dựng chắc hẳn là có lý do xác đáng để viết điều này. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” đã viết về cột trụ đồng như sau:“Mã Viện đuổi theo đánh các tàn quân là Bà Đô Dương. Tới huyện Cư Phong tất thảy đầu hàng. Viện bèn lập trụ đồng ghi bờ cõi tận cùng của Hán. Đồng trụ tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. Viện có lời nguyền rằng “ Đồng trụ chiết (gãy), Giao Châu sẽ diệt”. Người nước ta đi qua bên dưới thường lấy đá đắp thêm vào, sau thành ngọn núi. Ay là vì sợ nó gãy! Mã Thống An Nam Đô hộ đời Đường lại dựng hai đồng trụ ở chỗ cũ đời Hán, ghi công đức Mã Viện để tỏ mình là dòng dõi Phục Ba …”. (8)
http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=518&Itemid=99999999


32 nhận xét:

  1. Cố đọc đi..nhiều tư liệu là lạ, nhưng có lẽ hữu ích.

    Trả lờiXóa
  2. Tiếp tục chống ngoại xâm kiểu du kích thì VN là nhất rồi!

    Trả lờiXóa
  3. Bài này dài quá . Cái màn hình của em lại rất nhỏ , đọc không hết .
    Tối về nhà chui vô PC đọc .
    Em thích sưu tầm tìm kiếm tư liệu sử học lắm sis Hương . Mà có điều thiếu tài liệu và sách vỡ .
    Tối nay em về đọc .Đọc xong em comment dài bằng phân nữa bài này được không sis ? ( Hì hì , nói chơi á sis )

    Trả lờiXóa
  4. chị còn chưa lấy về hết đó, mới lấy phân nửa hà!

    Trả lờiXóa
  5. Chỉ riêng việc Trưng Trắc đứng lên lãnh đạo phong trào toàn dân kháng chiến trước là để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng, sau là để trả thù chồng đã nói lên cái đạo lý chồng tín vợ trinh của người Việt mà Hán tộc không thể có được Sự kiện Mã Viện vừa đánh thắng Hai Bà Trưng đã phải bắt tay vào việc điều tấu Việt luật có mười điểm khác biệt với Hán luật, tất cả sự kiện ấy là một điểm chỉ khá chính xác về tình trạng độc lập của nước ta cho đến thời Hai bà Trưng”. Luận điệu miệt thị bôi bác sặc mùi Đại Hán của các tên Thái thú không thuyết phục được ai vì chính Hán Hiến Đế (190-220) đã tuyên xưng Giao Chỉ như sau:“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”. <========= Chi tiết này thật đắt giá!

    Trả lờiXóa
  6. Phải chi các phương tiện truyền thông cho thông tin các tài liệu tham khảo này ... còn hay và bổ ích cho độc giả ( nhất là giới trẻ ) hơn là các tin về ... Hiệp gà ... Sợi Xích ... vv và ...vv !

    Trả lờiXóa
  7. Bạn Hồ nghiên cứu cái này khỏi phải hát nhạc "rap" ! :))))))))

    Trả lờiXóa
  8. Như vậy, Au Lạc vẫn hoàn toàn tự trị mặc dù trên giấy tờ, Hán triều đã đổi tên nước là Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận gồm:
    1. Nam Hải (Quảng Đông).
    2. Thương Ngô (Quảng Tây).
    3. Uất Lâm (Quảng Tây)
    4. Hợp Phố (Quảng Châu).
    5. Giao Chỉ (Bắc Việt Nam)
    6. Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá)
    7. Nhật Nam (Nghệ An ).
    8. Châu Nhai (Đảo Hải Nam).
    9. Đạm Nhĩ (Nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam)
    Các chi tiết này nếu ... chính xác cũng vô cùng "đắt giá" !

    Trả lờiXóa
  9. Cho giới trẻ đọc ba cái này rồi ai thế tụi nó đi bar ..vũ truong ..uống thuốc lắc hử ? ..chính sách này sai với chủ truong của nhà nước ...phạt tù bây giờ đó .

    Trả lờiXóa
  10. Em đang định copy cái này thì anh timnhau copy rồi!

    Trả lờiXóa
  11. Phải gọi là " Mr Thừa tác dziên "

    Trả lờiXóa
  12. Cừ sảng khoái dzị cho đã ...ai như bà mập ..cứ ặc ặc ..rồi éc éc như bị cs bóp cổ :)))

    Trả lờiXóa
  13. chết cha ...5 chữ TTVTT là gì hôm qua đọc mừ quên òi .

    Trả lờiXóa
  14. À nhớ òi ..Mr " thứa tác dziên "

    Trả lờiXóa
  15. cái này giống múa ... tiếng chày trên sóc Bom bo wá !

    Trả lờiXóa
  16. Á, hình như là "tình chị, ziên em" nha, hahahahaha

    Trả lờiXóa
  17. Soeur người ta thì hiền dịu ... soeur này chuyên môn ... "nhát ma" !

    Trả lờiXóa
  18. trùi ! nghe mờ giật bắn mình !

    Trả lờiXóa
  19. An là luciphe chứ sơ gì chời ...bỏ đi tám .

    Trả lờiXóa
  20. Đêểyên cho ngừ ta tu hành Mr Walk ưi .

    Trả lờiXóa
  21. Bị chọc òi ..mắc cỡ quá ...rút quânnnnnnnnn

    Trả lờiXóa
  22. Chạy đâu cho thoát hử nhóc An???????Tau rượt à!

    Trả lờiXóa
  23. Ưm ... tui cũng đi lễ chiều ! :)

    Trả lờiXóa
  24. Nhớ cầu nguyện cho tui dzới nghen.

    Trả lờiXóa
  25. Hai Bà Trưng tế Phục Ba tướng quân
    http://hongdou.gxnews.com.cn/viewthread-4902417.html
    http://hongdou.gxnews.com.cn/viewthread-3177054.html
    Có cả bài văn tế phiên âm ra tiếng Việt

    Hội nghệ sĩ dân gian TP:主持人:市民间艺术家协会会员
    Đoàn khách VN biểu diễn giao lưu văn hóa: 越方嘉宾文艺表演,她(他)们都不懂汉语
    Họ còn chửi người VN ca hát nhảy múa, không biết lịch sử:
    今天去看了很多人很多社会名流场面很热闹,还还看到一帮越南鬼在又跳又唱的感觉到很好笑难道它们不知道历史?

    Trả lờiXóa